TỔNG QUAN THỰC VẬT CHI Solanum L.
Chi Solanum L. là một chi lớn nhất trong họ Cà (Solanaceae). Các loài thuộc chi Solanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm. Vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ là nơi có số lượng loài thuộc chi Solanumnhiều nhất, đa dạng nhất, sau đó đế châu úc, châu Phi và châu á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam [18].
Chi Solanum ở Việt nam có 28 loài [6], phân bố từ Bắc vào Nam, các loài thuộc chi Solanum có giá trị thực tiễn như: làm thuốc, làm rau ăn và làm cảnh. Trong các loài có tác dụng làm thuốc thì không ít loài có chứa alcaloid, nên việc sử dụng chúng ta cần hết sức lưu ý. Alcaloid trong họ Cà nói chung và chi Solanumnói riêng là những hợp chất vừa có tác dụng làm thuốc đồng thời lại vừa có độc tính. Các loài được sử dụng làm rau ăn cũng có giá trị kinh tế không nhỏ, trong đó phải kể đến một số loài đem lại lợi ích rất to lớn cho con người như: Khoai tây (S. tuberosum), Cà chua (Lycopersicon esculentum)…
Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vị trí phân loại, phân bố, đặc điểm thực vật của chi Solanum L.. Trong khi đó, ở Việt Nam các nghiên cứu về vấn đề này còn chưa nhiều.
1. Vị trí phân loại chi Solanum L. và họ Cà (Solanaceae Juss.) trên thế giới và ở Việt Nam trong các hệ thống phân loại thực vật
Trên thế giới, ngay giữa thế kỷ 18, C. Linnaeus (1753) [46] đã biết dựa vào một số đặc điểm của thực vật (chủ yếu là số lượng nhị) để sắp xếp các chi và loài thực vật (trong đó có các loài sau này thuộc họ Cà) vào các nhóm khác nhau. Đây là kiểu phân chia “tự nhiên” chủ quan. Mặc dù vậy, nó vẫn là kiểu phân chia tiến bộ nhất thời bấy giờ, nên các tác giả sau đó đã sử dụng cách phân chia này để nghiên cứu hệ thực vật của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Năm 1789, A. Jussieu [44] công bố tên gọi của họ Cà: Solaneae Juss. (lấy từ tên chi Solanum L.). Tên gọi Solanae của Juss. về sau được chỉnh lại cho đúng với tên gọi của luật danh pháp: SolanaceaeJuss., typus: Solanum L.
Sau công bố của Juss. 1789, nhiều nhà nghiên cứu đã biết dựa vào các đặc điểm hình thái như: hoa, quả, hạt… để mô tả họ và các taxon trong họ. Tuy nhiên, khi sắp xếp các taxon trong họ còn nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, R. Brown (1810) [43] đã dựa vào các nhóm đối lập nhau về hình thái của tràng (xếp nếp đối lập không xếp nếp), nhị (nhị nhiều đối lập với hai nhị khoẻ), phôi (phôi cong đối lập với phôi hơi cong hình cung) để chia Solaneae ra thành hai Section. Đến Kunth (1818) [45] lại dựa vào sự đối lập về hình thái của quả (quả mọng đối lập với quả nang) để chia Solaneae ra thành hai Section. Mặc dù có những ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung đây vẫn là bước tiến rất quan trọng so với thời của C. Linnaeus (1953) [46], bởi nó đã đưa được các taxon có quan hệ thân cận về gần với nhau hơn.
Về sau, nhiều tác giả khi nghiên cứu họ Solanaceae đã xây dựng được các hệ thống phân loại. Trải qua một thời gian dài, đến nay đã có không ít các hệ thống phân loại ra đời. Các hệ thống được xây dựng trên cơ sở các taxon xếp sau thường có nhiều đặc điểm tiến hoá hơn các taxon xếp trước. Và khi xây dựng hệ thống các tác giả đều chủ yếu dựa vào những đặc điểm điển hình nhất của cơ quan sinh sản. Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ, mỗi tác giả lại có cách nhìn nhận riêng trong việc xây dựng hệ thống của mình. Qua nghiên cứu các hệ thống phân loại về họ Solanaceae của một số tác giả ở thời kỳ khác nhau, chúng tôi nhận thấy có một số quan điểm phân chia sau đây:
1.1. Quan điểm 1: Họ Solanaceae được phân chia thành các tông. Tiêu biểu cho quan điểm phân chia này có một hệ thống phân loại nổi tiếng như: G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42], H. Melchior (1964) [39], V. H. Heywood (1993) [26].
a: Theo hệ thống phân loại của G. Bentham & J. D. Hooker (1864)[42]: họ Solanaceae được chia thành 5 tông, với 66 chi. Đó là:
Trib. 1. Solaneae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp van; quả mọng… (31 chi):
Lycopersicum, Solanum, Cyphomandra, Phyalis, Capsicum…
Trib. 2. Atropeae: Thuỳ tràng không gấp nếp, xếp lợp; quả mọng … (6 chi):
Grabowskia, Lycium, Atropa, Mandragora, Dyssochroma, Solandra.
Trib. 3. Hyoscyameae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp lợp; quả nang … (4 chi)
Datura, Scopolia, Physochlaina, Hyoscyamus.
Trib. 4. Cestrineae: ống tràng hình trụ, thuỳ tràng xếp lợp hay van cong vào hay gấp nếp; quả mọng hay quả nang… (10 chi): Cestrum, Nicotiana..
Trib. 5. Salpiglossideae:Thuỳ tràng gấp nếp cong vào; xếp lợp hay xếp van; quả nang, hiếm khi quả mọng… (15 chi): Petunia, Salpiglossis, Browallia, Brunfelsia..
Như vậy, hệ thống phân loại của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] dựa vào sự khác biệt chủ yếu của các đặc điểm hình thái như: tràng, quả .. để phân chia họ Solanaceae ra thành 5 tông khác nhau. Đây là một hệ thống phân loại khá nổi tiếng thời bấy giờ. Rất nhiều tác giả trên thế giới đã từng lựa chọn hệ thống này để nghiên cứu thực vật ở mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
b: H. Melchior (1964) [39] dựa vào sự khác nhau của phôi và xếp đặc điểm cấu tạo này là đặc điểm quan trọng nhất để phân chia họ Solanaceaera thành hai nhóm: nhóm A (gồm 3 tông), nhóm B (gồm 2 tông). Sau đó tác giả chủ yếu dựa vào các đặc điểm cấu tạo của bầu (mặc dù bầu trong họ Solanaceae là bầu 2 ô, nhưng do ở một số chi có vách ngăn giả nên đã hình thành bầu có 3-5 ô) và số lượng nhị để phân chia họ Solanaceae ra thành 5 tông. Ngoài ra, tác giả còn tiếp tục phân chia tông Solaneae ra thành 4 phân tông và tông Cestreae ra thành 3 phân tông với 85 chi trong họ. Đó là:
Trib.1. Nicandreae: Bầu 3-5 ô, có vách ngăn giả không đều; quả mọng: Nicandra.
Trib.2. Solaneae: Bầu thường 2 ô, hiếm khi hơn.
Subtrib. Lyciinae: Nhị đính gốc; tràng hình ống hoặc chuông; quả mọng: Lycium, Atropa…
Subtrib. Hyoscyaminae: Nhị đính gốc, tràng hình phễu hoặc chuông; quả nang: Hyoscyamus..
Subtrib. Solaninae: Nhị đính gốc; tràng hình bánh xe hoặc chuông; quả mọng; Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon…
Subtrib. Mandragorinae: Bao phấn đính lưng; quả mọng: Cyphomadra, Mandragora…
Trib. 3 Daturea: Bầu 4 ô do có vách ngăn giả mà thành; quả mọng hay nang: Solandra, Datura…
Phôi thẳng hoặc hơi cong. Bầu 2 ô.
Trib. 4. Cestreae: Nhị 5, bằng hoặc không bằng nhau.
Subtrib. Cestrinae: Hạt có nội nhũ; quả mọng: Cestrum…
Subtrib. Goetzeinae: Hạt không có nội nhũ; quả mọng: Goetzea…
Subtrib. Nicotianinae: Hạt có nội nhũ; quả nang: Nicotiana, Petunia…
Trib. 5. Salpiglossideae: Nhị 2-4; quả nang hiếm khi quả mọng: Brunfelsia, Browallia…
Đây là hệ thống phân loại rất được thịnh hành trong thế kỷ 20. Nó đã được nhiều nhà thực vật trên thế giới chọn để làm cơ sở cho việc phân loại thực vật của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
c: Về sau, V. H. Heywood (1993) [26] cũng phân chia họ Solanaceae ra thành 5 tông như hệ thống H. Melchior (1964) [39], rồi chia nhỏ tiếp thành các chi, chứ không qua bậc trung gian là phân tông. ở hệ thống này, tác giả cũng chủ yếu dựa vào đặc điểm phôi thẳng hay phôi cong để phân chia họ Solanaceae thành 2 nhóm:
*Nhóm 1:Phôi cong, gồm 3 tông là
Trib.1. Nicandreae: Bầu 3-5 ô, có vách ngăn không đều: Nicandra.
Trib.2. Solaneae: Bầu 2 ô: Lycium, Phyalis, Capsicum, Lycopersicon, Solanum..
Trib.3. Datureae: Bầu 4 ô, có vách ngăn đều: Datura…
*Nhóm 2: Phôi thẳng hoặc hơi cong, gồm 2 tông là:
*Nhóm 2: Phôi thẳng hoặc hơi cong, gồm 2 tông là:
Trib.4. Cestreae: 5 nhị hữu thụ: Cestrum, Nicotiana, Petunia…
Trib.5. Salpiglossideae: 2 hoặc 4 nhị hữu thụ: Salpiglossis..
Qua các hệ thống đã nêu trên đây, có thể lập bảng so sánh một cách tổng quát như sau (bảng 1.1)
Bảng 1.1. Tóm tắt các hệ thống G. BENTHAM & J. D. HOOKER (1864), H. MELCHIOR (1964) Và V. H. HEYWOOD (1993)
Bảng 1.1 cho thấy, toàn bộ các tông trong các hệ thống của H. Melchior (1964) [39] và V. H. Heywood (1993) [26] đều có sự xáo trộn so với hệ thống của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42]. Đó là chi Nicandra được nâng lên thành tông Nicandreae vì có bầu 3-5 ô, với vách ngăn không đều. Bãi bỏ tông Antropeaevà Hyoscyameae, đồng thời chuyển các chi (Antropa, Lycium, Mandragora của tông Antropeae; Hyoscyamus của tông Antropeae; Datura của tông Hyoscyameae) có bầu 4 ô với vách ngăn đều thành tông Datureae. Ngoài ra, chi Petunia vì có 5 nhị nên đã được chuyển từ tông Sagiglossideae sang tông Cestreae. Như vậy, so với hệ thống G. Bentham & J. H. Heywood (1993) [26] đã có sự thay đổi rõ rệt. Toàn bộ các tông do G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] công bố đều bị các hệ thống H. Melchior (1964) [39] và V. H. Heywood (1993) [26] sắp xếp lại. Còn giữa hệ thống H. Melchior (1964) [39] và V. H. Heywood (1993) [26] thì chỉ có sự khác nhau trong việc phân chia taxon ở bậc thấp hơn như 2 trong số 5 tông ở hệ thống của H. Melchior (1964) [39] còn có sự phân chia thành các phân tông rồi mới đến chi, trong khi hệ thống của V. H. Heywood (1993) [26] lại phân chia trực tiếp thành các chi.
Qua sự phân tích 3 hệ thống tiêu biểu trên cho thấy: hệ thống phân loại G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] là hệ thống đã quá lạc hậu và có nhiều sự bất hợp lý; hệ thống của V. H. Heywood (1993) [26] khắc phục được những nhược điểm của hệ thống G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] nhưng quá ngắn gọn, nên sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc sắp xếp các taxon thuộc 2 tông: Solaneae và Cestreae; trong khi đó hệ thống H. Melchior (1964) [39] vừa khắc phục được những nhược điểm của hệ thống G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] lại vừa giải quyết được việc sắp xếp các taxon trong 2 tông: Solaneae và Cestreae. Vì hai tông này còn có sự phân chia nhỏ thành các phân tông. Do vậy, trong 3 hệ thống trên, hệ thống H. Melchior (1964) [39] là hợp lý hơn cả cho việc sắp xếp các taxon thuộc họ Solanaceae.
1.2. Quan điểm 2: Họ Solanaceae được phân chia thành các phân họ (Subfam.) Quan điểm này chủ yếu gặp ở các hệ thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 & 1996) [49], [50], [30]
a. Trong hệ thống A. L. Takhtajan (1981) [49], tác giả đã chia họ Solanaceae thành 2 phân họ:
Subfam.1. NOLANOIDEAE: Nolana
Subfam.2. SOLANOIDEAE:
Trib.1. Nicandreae: Nicandra.
Trib. 2. Solaneae: Licium, Atropa, Hyoscyamus, Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra, Mandragora..
Trib. 3. Datureae: Datura, Brugmasia, Solandra..
Trib. 4. Cestreae: Cestrum, Nicotiana, Petunia…
Trib. 5. Salpiglossideae: Brufelsia, Salpiglossis..
Trong hệ thống này, tác giả chỉ đưa thêm phân họ Nolanoideaevào họ Solanaceae còn phân họ Solanoideae gồm toàn bộ 5 tông như trong hệ thống của H. Melchior (1964) [39] nhưng không phân chia tiếp thành các phân tông.
b. Đến hệ thống Takhtajan A. L. (1987) [50], tác giả lại phân họ Nolanoideae thành họ Nolanaceae và tách Solanoideae thành 2 phân họ: Solanoideaevà Cestroideae. Đồng thời, tác giả chia nhỏ hầu hết các tông trong hệ thống A. L. Takhtajan (1981) [49] và nâng số tông ở hệ thống A. L. Takhtajan (1987) [50] lên tới 12, với 90 chi. Đó là:
Subfam.1. SOLANOIDEAE (7 tông):
Trib.1. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra..
Trib. 2. Datureae: Datura, Brugmasia..
Trib.3. Jaboroseae: Jaborosa..
Trib.4. Lycieae: Lycium…
Trib.5. Nicandrea: Nicandra.
Trib.6. Solandreae: Solandra..
Trib.7. Juanulloeae: Juanulloa..
Subfam.2. CESTROIDEAE (5 tông):
Trib.8. Cestreae: Cestrum…
Trib.9. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia..
Trib.10. Schwenckieae: Schwenckia…
Trib.11. Parabouchetieae: Parabouchetia…
Trib.12. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browallia…
c: Nhưng đến hệ thống A. L. Takhtajan (1996) [30], tác giả lại đưa họ Nolanaceae trở thành phân họ Nolanoideae của họ Solanaceae, đồng thời tiếp tục chia nhỏ và nâng số tông lên 14. Do vậy họ Solanaceaetrong hệ thống này gồm 3 phân họ (Subfam.), 14 tông (Trib.), với 96 chi (Genus). Đó là:
Subfam.1. CESTROIDEAE (6 tông)
Trib.1. Anthocercideae: Anthocercis..
Trib.2. Cestreae: Cestrum…
Trib.3. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia…
Trib.4. Schwenckieae: Schwenkia…
Trib.5. Parabouchetieae: Parabouchetia..
Trib.6. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browllia..
Subfam.2. SOLANOIDEAE (8 tông)
Trib.7. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra…
Trib.8. Hyoscyameae: Mandragora, Hyoscyamus…
Trib.9. Datureae: Datura, Brugmasia…
Trib.10. Jaboroseae: Jaborosa…
Trib.11. Lycieae: Lycium…
Trib.12. Nicandreae: Nicandra.
Trib. 13. Solandreae: Solandra…
Trib. 14. Juanulloeae: Juanulloa..
Subfam.3. NOLANOIDEAE (1 chi): Nolana.
Từ các hệ thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 & 1996) [49], [50], [30] ta có thể lập bảng so sánh như sau (bảng 1.2):
Bảng 1.2. Tóm tắt các hệ thống của Takhtajan A. L. (1981, 1987 & 1996)
Qua bảng 1.2 cho thấy, việc đưa họ Nolanaceae trở thành phân họ Nolanoideaecủa Solanaceae trong các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 & 1996) [49], [30] là không thoả đáng, bởi vì trong khi ở Solanaceae có kiểu đính noãn trụ giữa, nội nhũ nạc, thì ở Nolanaceae có kiểu đính noãn gốc, nội nhũ rất ít hay không có. Trong hệ thống của A. L. Takhtajan 1987 [50], họ Solanaceae không chứa phân họ Nolanoideae, nên hợp lý hơn các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 & 1996) [49], [30].
Như vậy, hệ thống H. Melchior (1964) [39] và hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50] là hai hệ thống tiêu biểu nhất cho hai quan điểm nêu trên. So sánh 2 hệ thống này với nhau cho thấy, hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50] có ưu điểm là phân chia thành 2 phân họ rõ ràng, còn hệ thống H. Melchior (1964) [39] chỉ phân chia thành 2 nhóm tông. Tuy nhiên, đặc điểm duy nhất để hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50] phân chia họ Cà thành 2 phân họ là đặc điểm của phôi, đây là đặc điểm không dễ dàng nhận biết được bằng mắt thường, lại không dễ thấy ở các tiêu bản, nên rất khó cho việc nghiên cứu bằng phương pháp hình thái so sánh. Ngoài ra, ở hệ thống Takhtajan 1987 [50] họ Cà được phân chia tới 12 tông, trong đó có một nửa số tông không thấy có đại diện ở Việt Nam. Nên lựa chọn hệ thống Takhtajan 1987 [50] cho việc phân loại họ Cà ở Việt Nam là không thoả đáng. Còn hệ thống H. Melchior (1964) [39] có số lượng tông vừa phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia của hệ thống này khá dễ dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Do vậy, việc lựa chọn hệ thống H. Melchior (1964) [39] để sắp xếp các taxon trong họ Cà ở Việt Nam là hợp lý hơn cả.
Ở các nước trong khu vực với Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu họ Solanaceae.
S. Kurz (1987) [27] dựa vào sự đối lập của quả (quả mọng đối lập với quả nang), đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả đối lập với bao bọc kín quả)… để chia họ Solanaceae thành các nhóm nhỏ dần theo kiểu khoá lưỡng phân. Ngoài ra, trong công trình này, chi Gardneria (nay thuộc họ Loganiacea) vẫn được tác giả xếp trong họ Solanaceae.
C. A. Backer (1877) [27] dựa vào sự đối lập của quả (quả mọng đối lập với quả nang), đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả đối lập với bao bọc kín quả).. để phân chia họ Solanaceaethành các nhóm nhỏ dần theo kiểu khoá lưỡng phân. Ngoài ra, trong công trình này, chi Gardneria (nay thuộc họ Loganiaceae) vẫn được tác giả xếp trong họ Solanaceae.
ở Inđônexia, C. A. Backer & R. C. Bakhuizen van den Brink Jr. (1965) [35] công bố 18 chi, với 65 loài thuộc họ Solanaceae có ở Java, các chi và loài viết dưới dạng khoá định loại, không có mô tả chi tiết và không có hình vẽ minh hoạ, danh pháp các taxon không được chỉ dẫn đầy đủ, thiếu tài liệu công bố và mẫu nghiên cứu.
ở Trung Quốc, K. Z. Kuang & A. M. Lu (1978) [38] trên cơ sở hệ thống H. Melchiol (1964 ) [39] đã sắp xếp các taxon của họ Solanaceae trong 4 tông, 5 phân tông, 24 chi, với 105 loài có kèm theo hình vẽ của một hay nhiều bộ phận. ở đây tác giả mô tả khá chi tiết các chi và loài, có một số hình vẽ minh hoạ. Tuy nhiên, các tác giả đã không chỉ ra typus., mẫu nghiên cứu, và về mặt danh pháp cũng còn một số nhầm lẫn.
Z. Y. Zhang, A. M. Lu & W. G. D’Arcy (1994) [32] đã mô tả 20 chi với 101 loài có ở Trung Quốc bằng tiếng Anh. So với công trình bằng tiếng Trung Quốc (1978) [38], công trình này các tác giả đã không mô tả 2 chi được trồng làm cảnh là Atropa và Cyphomandra, nhập chi Scopoliavào chi Anisodus và nhập chi Archiphysalis vào chi Physaliastrum, đồng thời nhập loài Solanum cathayanum vào loài Solanum lyratum… nên số chi chỉ còn 20 chi, với 101 loài. Ngoài ra các tác giả cũng đã chỉnh lý và sữa chữa những sai sót về danh pháp. Tuy nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng không được trích dẫn, nên không thuận lợi cho người tra cứu và sử dụng.
ở Việt Nam, J. Loureiro (1790) ed. 2 by C. L. Willdenow (1793) [47] đã mô tả 6 chi, với 23 loài về sau này thuộc họ Solanaceae. Cũng giống như Linnaeus, tác giả đã xếp chung các chi và loài này vào nhóm 5 nhị cùng với các chi và loài của các họ khác. Công trình của Loureiro chỉ là những nghiên cứu sơ khai và còn có sự nhầm lẫn giữa các loài với nhau.
Đáng chú ý là công trình của G. Bonati (1915-1927) [34]. Đây là công trình nghiên cứu họ Solanaceaedưới dạng một taxon riêng biệt đầu tiên ở Việt Nam. Tác giả mô tả 8 chi, với 31 loài có ở Đông Dương; trong đó ở Việt Nam có 7 chi, với 27 loài. ở công trình này, tác giả đã không phân chia các taxon theo bậc tông như hệ thống của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] mà chỉ từ họ xuống chi. Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về họ Solanaceae ở Đông Dương, nó vẫn được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở nước ta. Song về mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh lý, và đặc biệt là số lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt Nam.
Phạm Hoàng Hộ (1972) [3] đã mô tả ngắn gọn với hình vẽ đơn giản của 8 chi, 31 loài thuộc họ Solanaceaegặp ở miền Nam Việt Nam. Năm 1993 [4] tác giả mô tả 51 loài thuộc 16 chi trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lần tái bản năm 1999 [5] tác giả đã bổ xung 12 loài, đưa tổng số loài từ 51 lên 63. Nhìn chung trong cả 3 công trình của Phạm Hoàng Hộ, tác giả đều mô tả quá sơ sài với hình vẽ đơn giản, phần danh pháp còn nhiều sai sót, chưa chỉ dẫn mẫu nghiên cứu.
Lê Khả Kế và cộng sự (1974) [9] đã mô tả, nêu đặc điểm sinh học, sinh thái, giá trị sự dụng kèm theo hình vẽ của 24 loài thường thấy thuộc 8 chi của họ Solanaceae ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Phú (1984) [11] ghi nhận họ Solanaceae ở Tây Nguyên có 7 chi, với 16 loài.
Nguyễn Thị Nhan (1996) [48] ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có 13 chi, với 53 loài.
Nguyễn Tiến Bân (1997) [12] đã ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có 16 chi, gần 50 loài.
Vũ Văn Hợp & Nguyễn Thị Nhan (2005) ghi nhận họ Solanaceaeở Việt Nam có 16 chi, với 58 loài [7].
Có thể so sánh một số công trình nghiên cứu điển hình trong bảng 1.3
Bảng 1.3: So sánh các chi và loài thuộc họ Cà (Solanaceae) ở Việt Nam qua một số nghiên cứu điển hình
J. LOUREIRO (1790) | G. BOTANI (1915-1927) | Phạm Hoàng Hộ (1993) |
Lycium (2) Physalis (4) Capsicum (3) Solanum (12) Datura (1) Nicotiana (1) Tổng số: 6 chi, 23 loài | Lycium (1) Physalis (2) Capsicum (4) Solanum (17) Cyphomandra (1) Datura (1) Nicotiana (1) Tổng số: 7 chi, 27 loài | Lycium (2) Physalis (2) Capsicum (1) Tubocapsicum (1) Solanum (27) Lycianthes (4) Lycopersicon (1) Cyphomandra (1) Datura (2) Brugmansia (1) Cestrum (2) Nicotiana (1) Petunia (1) Brunfelsia (1) Browallia (1) Atrichodendron (1) Tổng số: 16 chi, 51 loài |
(Chú thích: số trong ngoặc đơn sau tên chi là số loài)
Bảng 1.3 cho thấy: so với trước kia thì giờ đây không chỉ có số chi và loài tăng lên, mà còn có sự sắp xếp lại cac taxon. Chẳng hạn, chi Capsicumtrước có từ 3 loài (Lour. 1790) hay 4 loài (Bonati, 1915-1927) thì nay đã nhập lại thành 1 loài (P. H. Hộ, 1993); còn một số loài trong chi Solanum (Lour. 1790) hay (Bonati, 1915-1927) nay được chuyển sang các chi Lycianthes, Lycopersicon (P. H. Hộ, 1993).
2. Đặc điểm thực vật của chi Solanum L.
2.1. Đặc điểm hình thái chi Solanum L.
Đặc điểm hình thái của của chi Solanum do Linné mô tả đầu tiên vào năm 1753 dựa trên đặc điểm thực vật của loài S. nigrum L.
Cây thảo, cây bụi, cây leo, cây gỗ nhỏ, đôi khi có gai; có lông che chở, lông phân nhánh hoặc hình sao, đôi khi có lông tiết.
Lá đơn mọc cách hoặc thành từng cặp không đều, mép nguyên, có răng, có thuỳ hoặc xẻ thuỳ sâu, phần lớn có cuống lá.
Cụm hoa ở nách lá, ngoài nách, đối diện với lá hoặc ở đỉnh cành, mọc thành dạng xim bọ cạp, xim bọ cạp ghép cặp, xim hai ngả kép của xim bọ cạp, có hiện tượng lôi cuốn, dạng chùm, dạng chùm phân nhánh, dạng tán hay chỉ là hoa (mọc) đơn độc. Hoa lưỡng tính hoặc đực và lưỡng tính cùng gốc, thường mẫu 5, rất hiếm khi mẫu 4 (Solanum procumbens). Đài xẻ thuỳ, có tai cao, có lông ở mặt ngoài. Tràng hình bánh xe hay hình chuông, tràng hoa dạng ống ngắn, xẻ thành 5 hoặc 10 cánh.
Nhị có chỉ nhị rất ngắn, đính trên tràng, bao phấn thuôn, nhọn đầu, bao phấn chụm lại hoặc nối thành vòng tròn quanh vòi nhuỵ, mở lỗ ở đỉnh hay gần đỉnh, mở theo đường nứt dọc. Vòi nhụy ngắn và nhỏ; bầu trên, thường 2 ô (có thể hơn do vách giả), với giá noãn rộng, noãn nhiều; núm nhuỵ nhỏ.
Quả mọng phần lớn mọng nước. Đài ở quả thỉnh thoảng phát triển bao quanh quả mọng. Hạt nhiều, dẹt dạng đĩa hoặc thấu kính lồi; phôi hướng ngoài. Đặc biệt giải phẫu có vòng libe quanh tủy ở cuống và gân lá. Biểu bì mang lông che chở và lông tiết [37]
Hạt phấn hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường kính 7-28 µm
Số lượng nhiễm sắc thể n=12 [36]
Hình 2.1: Solanum nigrum L.
1. Cành mang hoa và quả; 2: hoa; đài mở; tràng mở và nhị; 5 nhị; 6 nhuỵ. (hình theo Kuang & Lu, 1978)
Hình 2.2: Hạt phấn của Solanum nigrum
2.2. Một số đặc điểm khác
2.2.1. Số lượng nhiễm sắc thể
Theo một số công trình nghiên cứu về nhiễm sắc thể của Gordian (2006) [25], Swaminatha (1953) [29], Amalia Barone (1999) [13], D’Arcy (1974) [22], Yamagata (1969) [31] số lượng nhiễm sắc thể của các loài thuộc chi Solanum được thống kê ở phụ lục 2.1
Nhận xét: Số liệu ở phụ lục 2.1 cho thấy, đa số các loài thuộc chi Solanum có số nhiễm sắc thể 2n=24 và cao nhất ở S. indicum 2n=69. Số lượng nhiễm sắc thể cơ bản của chi SolanumX=12-36. Trong đó số ưu thế và cũng coi như số gốc của chi X=12. Hiện nay X=12 được coi là số đặc trưng cho các đại diện gần với dạng tổ tiên.
2.2.2. Hạt phấn
Hạt phấn của các loài thuộc chi Solanum L., hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường kính 7-28 µm, thể tích hạt phấn từ 1,4-8 µm3. Chúng có lớp vỏ ngoài mỏng 1-1,5 µm.
Kích thước hạt phấn rất khác nhau, hạt phấn của S. carchiensecó đường kính khoảng 28,6 µm có kích thước lớn nhất. Hạt phấn của loài S. subvelutinum có đường kính khoảng 7,2 µm có kích thước nhỏ nhất [40].
3. Sự phân bố của chi SolanumL.
Chi Solanum bao gồm hơn 1200 loài, phân bố rộng rãi trên khắp thế giới Các loài thuộc chi Solanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm. Nhiều nhất là vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ, sau đó đến châu úc, châu Phi và châu á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Loài được biết đến nhiều nhất trong chi là Khoai tây (S. tuberosum), có nhiều loài là cây cỏ mọc hoang dại, có nhiều loài phân bố ở những vùng núi cao, bán sa mạc, bờ biển và ven sông [37], [15], [20], [19], [16], [21], [17], [34]. Sự phân bố các loài thuộc chi Solanum L. được mô tả ở hình 1 (nguồn: Cartographic Research Lab., University of Alabama
Hình 3.1: Bản đổ phân bố chi SolanumL. trên thế giới
4. Phân loại chi SolanumL.
Số lượng các loài thuộc chi Solanum L, trên thế giới được ghi trong các tài liệu thực vật rất khác nhau. Phần lớn các tài liệu thống kê khoảng 1200 loài [37].
Có rất nhiều khoá phân loại thực vật trên thế giới và ở Việt nam: Flora of Panama (1973) [37] (phụ lục 4.1), Flore de Madagascar et des Comores (1994) [19], Flora Générale de l’Indochine (1927) [34], Flora of China (1994) [41] (phụ lục 4.2), Flora of Taiwan (1983) [24], A Catalogue of the Vascular Plants of Madagascar (2007) [28], Flora of Chile (2007) [23]...
Hiện nay có 4 cách phân loại chi Solanum L. được sử dụng nhiều trong các tài liệu khoa học, đó là khoá phân loại của
- D’Arcy (Flora of Panama 1973) [37]. Số lượng các loài trong khoá phân loại này được mô tả rất chi tiết và rõ ràng, tuy nhiên đa số các loài trong khoá phân loại này chủ yếu phân bố ở Châu Mỹ, rất ít loài có mặt ở Việt Nam.
- G. Bonati (Flora Générale de l’Indochine 1927) [34]: Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về họ Solanaceae và chi Solanumở Đông Dương, nó vẫn được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở nước ta. Song về mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh lý, và đặc biệt là số lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt Nam.
- Z. Y. Zang (Flora of China 1994) [32]: Các tác giả cũng đã chỉnh lý và sữa chữa những sai sót về danh pháp. Tuy nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng không được trích dẫn, nên không thuận lợi cho người tra cứu và sử dụng.
- Vũ Văn Hợp (2006) [6]. Tác giả là đã xây dựng khoá phân loại các loài thuộc chi Solanum chi tiết và đầy đủ nhất ở Việt Nam, khoá phân loại này phù hợp cho việc nghiên cứu các loài thuộc chi Solanum ở Việt Nam.
5. Khoá phân loại các loài thuộc Solanum L. ở Việt Nam
Vũ Văn Hợp (2006) [6] lần đầu tiên đã công bố khoá phân loại các loài thuộc chi Solanum L. ở Việt Nam chi tiết và đầy đủ nhất. Khoá phân loại này dựa trên hệ thống phân loại của H. Melchior (1964) [39] hệ thống này có số lượng tông vừa phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia của hệ thống này khá dễ dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Khoá phân loại các loài thuộc chi SolanumL. ở Việt Nam gồm 28 loài được mô tả như sau:
1A. Cây không có gai. Bao phấn hình bầu dục hay hình trứng.
2A. Thuỳ tràng tròn, có khía. Quả hình trứng hoặc hình bầu dục… S. laciniatum
2B. Thuỳ tràng hình tam giác, hình trứng, hình bầu dục hay hình mũi mác. Quả hình cầu, hiếm khi có hình trứng.
3A. Cây có lông hình sao bao phủ toàn bộ. Cuống chung của cụm hoa to và chắc … S. erianthum
3B. Cây nhẵn hoặc có lông đơn. Cuống chung của cụm hoa thường nhỏ và mảnh.
4A. Hoa (mọc) đơn độc, mọc từng đôi hay cụm hoa đơn: dạng chùm, tán, gần như dạng tán hay dạng xim bọ cạp.
5A. Cụm hoa đơn. Quả mọng chín mầu vàng hay mầu đen.
6A. Lá thường mọc thành từng cặp không đều. Quả mọng chín mầu vàng.
7A. Lá nhẵn. Cụm hoa dạng xim bọ cạp. Tràng dài 5mm. Bao phấn dài 1,5mm …. 3. S. diphyllum
7B. Lá có lông ở nách của gân mặt dưới. Cụm hoa dạng chùm. Tràng dài 8-10mm. Bao phấn dài 3-3,5mm …. 4. S. spirale
6B. Lá đơn mọc cách. Quả mọng chín mầu đen …. 5. S. nigrum
5B. Hoa (mọc) đơn độc hoặc từng đôi. Quả mọng chín mầu đỏ …. 6. S. pseudo-capsicum
4B. Cụm hoa kép: dạng xim bọ cạp ghép cặp, dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp hay dạng chuỳ.
8A. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp. Lá nguyên hay có thuỳ.
9A. Lá thường mọc thành từng cặp không đều. Bao phấn dính nhau …. 7. S. dulcamara
9B. Lá đơn mọc cách. Bao phấn không dính nhau.
10A. Cành và lá có lông. Lá hình bầu dục hoặc hình đàn … 8. S. lyratum
10B. Cành và lá nhẵn. Lá hình mũi mác hoặc hình trứng hẹp …. 9. S. pittosporifolium
8B. Cụm hoa dạng xim bọ cạp ghép cặp hay dạng chuỳ. Lá xẻ thuỳ sâu.
11A. Lá xẻ thuỳ lông chim đứt đoạn. Đài có lông tơ thưa; thuỳ đài hình mũi mác. Quả mọng xanh hay vàng xanh … S. tuberosum
11B. Lá xẻ thuỳ hình lông chim. Đài nhẵn; thuỳ đài hình tam giác ngắn hoặc cụt. Quả mọng đỏ …. S. seaforthianum
1B. Cây có gai, rất hiếm khi không gai. Bao phấn hình mũi mác.
12A. Quả nhỏ, hình cầu, đường kính thường nhỏ hơn 1,5cm.
13A. Đài ở quả chỉ bao bọc phần gốc quả.
14A. Cây không có gai hoặc có gai dài 1mm. Lá nguyên hoặc gần như nguyên.
15A. Cây không có gai. Thuỳ tràng hình mũi mác. Bao phấn dài 8-9mm ……. S. robinsonii
15B. Cây có gai. Thuỳ tràng hình trứng-tam giác. Bao phấn dài 4-6mm …. 13. S. nienkui
14B. Cây có gai dài hơn 1mm. Lá có thuỳ hoặc xẻ thuỳ.
16A. Cỏ bò hay leo. Cụm hoa dạng xim bọ cạp.
17A. Hoa mẫu 4. Thuỳ đài hình tam giác. Thuỳ tràng hình mũi mác …. 14. S. procumbens
17B. Hoa mẫu 5. Thuỳ đài hình mũi mác có mũi nhọn. Thuỳ tràng hình trứng ….. 15. S. trilobatum
16B. Cỏ hay bụi đứng. Cụm hoa dạng chùm đơn hay chùm phân nhánh.
18A. Cụm hoa dạng chùm phân nhánh. Tràng mầu trắng. Vòi nhuỵ nhẵn. Quả mọng chín mầu vàng …. 16. S. torvum
18B. Cụm hoa dạng chùm đơn. Tràng mầu lam tím. Vòi nhuỵ có lông. Quả mọng chín mầu da cam …. 17. S. violacem
13B. Đài ở quả bao bọc kín trên 1/2 quả
19A. Tràng mầu tím. Bầu có lống tuyến …. 18. S. cyanocarphium
19B. Tràng mầu trắng. Bầu nhẵn.
20A. Lá hình trứng hẹp. Thuỳ đài hình tam giác dạng chỉ ở đỉnh. Bao phấn dài 4-4,5mm ….. 20. S. neogriffithii
12B. Quả lớn, có hình dạng khác nhau, đường kính trên 1,5cm.
21A. Quả có lông. Cụm hoa dạng chùm.
22A. Đài ở quả chỉ bao bọc một ở gốc quả, không có gai … 21. S. lasiocarpum
22B. Đài ở quả bao bọc gần như toàn bộ quả, có nhiều gai … 22. S. fefox
21B. Quả nhẵn. Cụm hoa dạng xim bọ cạp hay hoa (mọc) đơn độc.
23A. Quả có vú. Chỉ có cụm hoa dạng xim bọ cạp … S. mammosum
23B. Quả không có vú. Có cả cụm hoa dạng xim bọ cạp và hoa (mọc) đơn độc.
24A. Quả chín mầu đỏ. Hạt có cánh …… 24. S. capsicoides
24B. Quả chín mầu vàng, tím hay trắng. Hạt không có cánh.
25A. Tràng xẻ thuỳ sâu. Bầu có lông …. 25. S. viarum
25B. Tràng xẻ thuỳ nông. Bầu nhẵn.
26A. Quả hình cầu, đường kính nhỏ hơn 3cm.
27A. Lá thường không có gai. Đài không có gai … 26. S. album
27B. Lá có nhiều gai. Đài có gai ….. 27. S. incanum
26B. Quả có nhiều hình dạng khác nhau, đường kính lớn hơn 3cm …….. 28. S. melongena
6. Các loài thuộc chi Solanum L. có ở Việt Nam
Dựa trên khoá phân loại chi Solanum L. của Vũ Văn Hợp (2006) [6], chúng tôi đã xây dựng danh sách về đặc điểm thực vật, sinh học và sinh thái, phân bố và giá trị sử dụng của 28 loài thuộc chi Solanum L. có ở Việt Nam.
6.1. Solanum laciniatum Ait. – Cà úc
Tên khác - Cà (lá) xẻ.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1-4m, gốc hoá gỗ và to tới 6-10 cm. Thân nhẵn, ngoại trừ có ít lông tơ trên chóp non và búp. Lá thường mọc thành từng cặp không đều; mép lá nguyên hay xẻ 3-5 thuỳ sâu; lá xẻ thuỳ hình trứng rộng, cỡ 12-17 x 6-13 cm; lá nguyên hình mũi mác, cỡ 10-20 x 1,5-3 cm; cuống lá dài 0,5-1,5 cm. Cụm hoa dạng chùm, dài 8 cm, ở nách lá, ngoài nách lá hay ở đỉnh cành; cuống hoa dài 1,5-3cm. Đài dài 5-7 mm; thuỳ hình tam giác, dài 2-3 mm, dai như da, chóp có mũi nhọn. Tràng mầu lam tím, dài 2-2,5 cm; thuỳ tròn, có khía. Chỉ nhị dạng dùi; bao phấn hình bầu dục, dài 3-4 mm. Vòi nhuỵ dài 8 mm. Quả mọng vàng da cam, hình trứng hoặc bầu dục, cỡ 3 x 2,5 cm, rủ xuống. Hạt gần như hình trứng, cỡ 3 x 2 mm, dẹp.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 4-6, có quả tháng 7-9.
Phân bố: Nhập trồng ở Hà Nội (Văn Điển), Lâm Đồng (Đà Lạt) và một số nơi khác. Nguồn gốc từ Ôxtrâylia.
Alcaloid: Solasodin, Solasonin và Solamargin (Zang Z. Y. et al. 1994) [32]
Giá trị sử dụng: Trong cây, nhất là ở quả có chứa Solasodin, nguồn hoạt chất để chế thuốc ngừa thai [4]
6.2. Solanum erianthum D. Don – La
Tên đồng nghĩa: S. verbascifolium auct. Non L.: Bonati,. 1915.
Tên khác: La rừng, Ngoi, Cà hôi, Cà lông, Cà hoa lông, Chìa bôi, Phô bức.
Đặc điểm thực vật: Cây bụi, cao 2-4 m, có khi là cây gỗ nhỏ cao tới 10 m, có lông hình sao. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 9-29 x 5-15 cm, chóp nhọn hoặc có mũi nhọn, gốc tròn hoặc tù, mép nguyên hoặc lượn sóng; cuống lá chắc dài 3-8 cm. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp (có dạng như cụm hoa ngù) thẳng đứng thường xuất hiện ở đỉnh cành; cuống chung to và chắc, dài 3-12 cm; cuống hoa dài 3-5 mm. Đài hình chuông, đường kính 1 cm; thuỳ đài hình trứng, dài 3 mm. Tràng hoa mầu trắng, thuỳ tràng cỡ 6-8 x 3-4 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 2 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 4-6 mm. Quả mọng vàng nâu, hình cầu, đường kính 0,8-1 cm. Hạt dẹp, đường kính 1-2 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả gần như quanh năm. Mọc ở nơi đất hoang, bụi rậm, rải rác ở ven rừng.
Phân bố: Lào cai (Đản Khao), Sơn La (Sông Mã, Mộc Châu), Tuyên Quang (Na Hang), Cao Bằng (Trà Lĩnh, Thạch An: Đức Xuân; Trùng Khánh), Bắc Cạn (Chợ Đồn), Lạng Sơn (Cai Kinh, Hữu Lũng, Chi Lăng), Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Tây (Ba Vì), Hoà Bình (Kỳ Sơn, Lạc Thuỷ: Chi Nê; Lương Sơn, Mai Châu: Pà Cò), Hải Phòng, Hà Nam (Kim Bảng: Ba Sao), Ninh Bình (Cúc Phương, Đồng Giao), Thanh Hoá (Bá Thước: Pù Luông), Nghệ An (Con Cuông: Yên Khê; Nghĩa Đàn), Quảng Trị, Kon Tum (Đak Gley), Gia Lai (An Khê, Kon Hà Nừng), Đắk Lắk (Buôn Ma Thuột), Đắk Nông (Đắk Mil), Lâm Đồng (Lạc Dương, Đa M’Rông), Khánh Hoà (Nha Trang), Đồng Nai (Định Quán). Còn có ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Nam á, châu Đại Dương, châu Mỹ.
Alcaloid: Trong lá và quả chủ yếu chứa Solasodin. Ngoài ra, còn có Tomatodin và Solaverbascin (M. M. Blomqvist & N. T. Ban, 1999) [14].
Giá trị sử dụng: Rễ dùng chữa đau dạ dày, phong thấp, rắn cắn, mụn nhọt ung độc, gãy xương, bệnh bạch hầu mãn tính. Lá đắp trị viêm mủ da, loét lở, lòi dom, hắc lào, lao hạch (Võ Văn Chi, 2003) [2]. Lá dùng chữa tiểu tiện đục và phụ nữ khí hư (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10].
6.3. Solanum diphyllum L. – Cà hai lá
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 0,5-1 m; thân và lá bóng. Lá mọc cách; phiến thon, cỡ 10 x 3,5 cm, đáy từ từ hẹp thành cuống, không lông, gân phụ 8-10 cặp; cuống lá dài 3-5mm. Cụm hoa dạng xim bọ cạp, mọc đối diện với lá. Đài dài 2-2,5 mm. Tràng mầu trắng, dài 5 mm. Nhị có bao phấn dài 1,5 mm. Quả mọng vàng, hình cầu, đường kính 8-9 mm, nhẵn; cuống quả thẳng.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 3-8. Mọc rải rác ven đường, vườn, bãi hoang.
Phân bố: Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Đồng Tháp. Còn có ở các nước vùng nhiệt đới châu á, châu Phi và châu Mỹ.
6.4. Solanum spirale Roxb. -Chanh trường
Tên khác - Cà xoắn.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1-3 m, đôi khi hơi hoá gỗ. Lá đơn, thường mọc thành từng cặp không đều; phiến lá hình bầu dục hẹp, cỡ 5,5-17 x 3-7 cm, chóp nhọn hoặc có mũi nhọn, gốc nhỏ dần, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có bụi lông ở nách của gân chính; cuống lá dài 5-15 mm. Cụm hoa dạng chùm đơn, mọc đối diện với lá hoặc ở ngoài nách lá; cuống chung dài 3-12 mm, về sau mang những vết sẹo cuống hoa dễ thấy; cuống hoa dài 1,5-2,5 mm, cong xuống khi ra hoa. Đài dài 2-3 mm, có 4 hoặc 5 thuỳ; thuỳ đài hình tam giác, dài 0,5-1 mm. Tràng mầu trắng, dài 8-10 mm, có thuỳ dài khoảng 5-7 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 3-3,5 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 7 mm. Quả mọng vàng-da cam đậm, hình cầu, đường kính 0,8-1,2 cm; cuống quả cong xuống. Hạt mầu vàng hoặc nâu nhạt, dạng thận-hình đĩa, cỡ 2,5-3 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 7-12. Mọc rải rác ven đường, ruộng, bãi hoang.
Phân bố: Sơn La, Yên Bái (Nghĩa Lộ, Văn Chấn), Hà Giang (Vị Xuyên: Minh Tân), Phú Thọ (Xuân Sơn), Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Hoà Bình (Đà Bắc: Núi Biều; Kim Bôi, Kỳ Sơn, Lương Sơn, Mai Châu: Pà Cò), Lâm Đồng (Đà Lạt), Khánh Hoà (Nha Trang). Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc, Mianma, Lào.
Giá trị sử dụng: Quả ăn được và dùng làm gia vị. Toàn cây dùng chữa cảm mạo phát nhiệt, ho, viêm họng, sốt rét, đau bụng, ỉa chảy, lị trực khuẩn, viêm bàng quang, phong thấp, mụn nhọt, lở ngứa. Rễ dùng chữa kinh nguyệt không đều (Võ Văn Chi, 2003) [2]. Lá khô sắc uống chữa đau chướng bụng, phù thũng (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10].
6.5. Solanum nigrum L. – Lu lu đực
Tên đồng nghĩa: S. americanum
S. photeinocarpum Nakam. & Odash.
Tên khác: Thù lù đực, Cà đen, Nụ áo, Nút áo, Gia cầu, Thiên già nhi miêu, Cà trái dự.
Đặc điểm thực vật: Cỏ hàng năm, cao 30-100 cm, nhẵn hoặc có lông tơ. Lá đơn mọc cách, mỏng như giấy, hình trứng, cỡ 3-11 x 1,5-6,5 cm, chóp nhọn, gốc hình nêm thót dần tới cuống, mép nguyên hoặc có răng thưa, nhẵn hoặc có lông tơ; cuống lá dài 1-1,5 cm. Cụm hoa gần như dạng tán, mọc ở ngoài nách lá; cuống chung dài 1-2,5 cm; cuống hoa dài 5-10 mm. Đài hình chén, dài 1,5-2 mm, xẻ tới gần nửa; thuỳ hình trứng, có lông tơ ở mặt ngoài. Tràng mầu trắng, hiếm khi tím, dài 3-5 mm, xẻ thuỳ tới một nửa hoặc hơn; thuỳ tràng hình trứng thuôn, ở mặt ngoài có lông tơ. Chỉ nhị dài 0,5-0,7 mm, có lông tơ; bao phấn dài 1-2 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 1,5-2,2 mm, có lông tơ ở phía gốc. Quả mọng đen, hình cầu, đường kính 5-8 mm; cuống quả thẳng hoặc rủ. Hạt dẹt, hình thận, đường kính 1 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 6-11. Mọc rải rác trên các bãi hoang, ruộng hoang, ven đường, ở mọi độ cao đến 2500 m
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa), Sơn La (Thuận Châu, Mộc Châu), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây (Ba Vì), Hà Nội, Hoà Bình (Mai Châu, Lương Sơn), Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam (Kim Bảng), Ninh Bình (Cúc Phương), Nghệ An (Con Cuông: Pù Mát), Quảng Bình (Đồng Hới), Thừa Thiên Huế (đèo Hải Vân, A Lưới, Phú Lộc), Kon Tum (Ngọc Linh, Kon Plông), Đắk Lắk (Đắk Mil: Nam Đà), Lâm Đồng (Đà Lạt, Đức Trọng), Khánh Hoà (Nha Trang), Nam Bộ. Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc (Vân Nam), Nhật Bản, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philiphin và nhiều nước vùng nhiệt đới và ôn đới khác.
Alcaloid: Trong cây có chứa Solasodin, Solanigrin, Solanigridin (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Còn chứa Solanin (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10].
Giá trị sử dụng: Toàn cây dùng chữa cảm sốt, viêm họng, viêm phế quản cấp, bệnh đường tiết niệu, viêm thận cấp, viêm vú, u ác tính; dùng ngoài (lấy nước sắc rửa) chữa mụn nhọt, viêm mủ da, chốc lở, rắn cắn (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Lá và ngọn non (có độc) luộc kỹ ăn thay rau (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10]
6.6a Solanum pseudo-capsicum L. – Cà sơ ri
Tên khác: Cà cảnh, Cà ớt.
Đặc điểm thực vật: Cỏ nhiều năm, cao 30-70 cm, không có gai. Lá hình bầu dục hẹp hoặc hình mũi mác, cỡ 1-6 x 0,5-1,5 cm, chóp nhọn hoặc tù, gốc nêm, thót dần tới cuống, mép nguyên hoặc lượn sóng, nhẵn; cuống lá dài 2-5 mm. Hoa (mọc) đơn độc hoặc hiếm khi thành cặp mọc đối diện với nách lá hoặc ở ngoài nách lá; cuống hoa dài 3-4 mm. Đài có thuỳ lồi; thuỳ đài dài 1,5 mm. Tràng mầu trắng hoặc tím, đường kính 0,8-1,5 cm, thuỳ tràng hình mũi mác thuôn. Nhị ngắn hơn 1 mm, nhẵn; bao phấn dài 2 mm. Bầu nhẵn, vòi nhuỵ dài 2 mm. Quả mọng, khi chín mầu đỏ, đường kính 1,2-1,5 cm; cuống đài dài 1 cm, phồng ở chóp. Hạt hình đĩa, đường kính 2-3 mm.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa đầu hè, có quả cuối thu.
Phân bố: Trồng ở Hà Nội, Lâm Đồng (Đà Lạt) và nhiều nơi khác khắp nước ta. Nguồn gốc từ Nam Mỹ
Giá trị sử dụng: Được trồng làm cảnh vì quả đỏ đẹp.
6.6b. var. diflorum (Vell.) Bitter – Cà hai hoa
Tên đồng nghĩa: Solanum diflorumVell. 1825
Thứ này khác với thứ chuẩn bởi: Thân, lá và cụm hoa có lông phân nhánh. Bao phấn nhỏ hơn. Quả mọng, khi chín mầu vàng cam.
6.7. Solanum dulcamara L. – Cà đắng ngọt
Tên đồng nghĩa: Lycopersicum dulcamara Medik.
Đặc điểm thực vật: Cỏ bò rồi đứng hay leo. Lá thường mọc thành từng cặp không đều; phiến lá hình bầu dục hoặc hình trứng, cỡ 4-8 x 2-5 cm, chóp có mũi nhọn, gốc dạng mác hay có 1 hoặc hai thuỳ ở gốc lá, mép nguyên, có lông tơ thưa; cuống lá dài 1,5-4 cm. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp, mảnh, mọc ở ngoài nách lá; cuống chung dài 2-4 cm; cuống hoa dài 8-10 mm, có lông tơ thưa. Đài dài 1,5-2 mm; thuỳ đài hình tam giác, có lông tơ thưa. Tràng mầu tím, luôn luôn có mắt vàng, dài 5-8 mm; thuỳ tràng hình bầu dục-mũi mác, dài 5 mm. Quả mọng đỏ, hình cầu hoặc trứng, đường kính 6-8 mm. Hạt hình đĩa, đường kính 1,5-2 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 6-8. Mọc rải rác ven rừng, ở độ cao 500-1500 m.
Phân bố: Ninh Bình (Cúc Phương). Còn có ở các nước nhiệt đới châu á, châu Âu và châu Phi.
Giá trị sử dụng: Quả có thể được sử dụng để điều trị thấp khớp, viêm khớp và bệnh ngoài da (Z. Y. Zhang et al. 1994) [32].
6.8. Solanum lyratum Thunb. – Dây toàn
Tên đồng nghĩa: S. dulcamara var. lyrantum (Thunb.) Botani
Tên khác: Cà đờn, Bạch anh.
Đặc điểm thực vật: Cỏ gần như leo, có lông mầu vàng. Lá hình bầu dục hoặc hình đàn violon, cỡ 3-11 x 2-6 cm, chóp có mũi nhọn, gốc hình tim hoặc dạng mác, mép nguyên hay có thuỳ tròn ở gốc; cuống lá dài 1-3 cm. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp, mọc ở nách lá, ngoài nách hoặc ở đỉnh cành; cuống hoa dài 0,8-1,5 cm, có lông nhung. Đài dài 1,5-2,5 mm, có lông tơ thưa; thuỳ đài hình tròn. Tràng mầu lam tím hoặc trắng, dài 5-8 mm; thuỳ tràng hình bầu dục-mũi mác, cỡ 4 x 2 mm, cong gập góc, có lông tơ ở chóp. Chỉ nhị dài 0,8-1 mm; bao phấn rời, dài 2,8-3,2 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 6-8 mm. Quả mọng đỏ hoặc đỏ-đen, hình cầu, đường kính 7-9 mm. Hạt hình đĩa, đường kính 1,5 mm, có gân dạng lưới.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa quả tháng 7-11. Mọc rải rác ven rừng, ven đường, nơi ẩm.
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa), Lạng Sơn (Hữu Lũng: Hữu Liên). Còn có ở Trung Quốc, Nhật Bản.
Alcaloid: Trong quả có chứa Solanin (Võ Văn Chi, 2003) [2].
Giá trị sử dụng: Toàn cây dùng trị thấp nhiệt hoàng đản, đau đầu do phong nhiệt, bạch đới, đau nhức xương khớp (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Làm thuốc lọc máu trong những bệnh ngoài da, bệnh thấp khớp (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10]
6.9. Solanum pittosporifolium Hemsl. – Cà lá cườm thảo
Đặc điểm thực vật: Cỏ bò không phân nhánh, thường nhẵn. Lá hình mũi mác hoặc hình trứng hẹp, cỡ 4-13 x 1,5-4 cm, chóp có mũi nhọn, gốc tròn hoặc nêm, mép nguyên, luôn nhẵn; cuống lá dài 1,5-2 cm. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp, mọc ở ngoài nách lá; cuống hoa dài 0,5-2 cm. Đài có thuỳ hình tam giác, cỡ 1 x 2 mm, có lông tơ. Tràng thường có mầu trắng, hiếm khi tím, có đốm mầu lục nhạt ở họng; thuỳ tràng hình mũi mác cỡ 4-5 x 1,5 mm, cong gập góc, có lông tơ. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn rời, dài 2,5-2,8 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 7 mm. Quả mọng đỏ, hình cầu, đường kính 0,8-1,2 cm. Hạt hình đĩa, đường kính 2-2,8 mm.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 7-8, có quả tháng 9-12. Gặp rải rác trong rừng thứ sinh, ven rừng, ở độ cao 1600-1800 m. Còn có ở Trung Quốc.
Phân bố: Lao Cai (Sa Pa, Hàm Rồng), Cao Bằng (Nguyên Bình).
6.10. Solanum tuberosum L. – Khoai tây
Tên đồng nghĩa: Lycopersicum tuberosum Mill. 1768. Gard. Dict. Ed. 8. n 7.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao đến 100 cm, nhẵn hoặc có lông đơn và lông tuyến. Thân bò mang củ nằm ở dưới đất; củ mầu trắng hay tím, hình cầu, giẹp hai đầu hoặc bầu dục, đường kính 3-10 cm, có thịt. Lá xẻ thuỳ hình lông chim đứt đoạn, có các thuỳ to nhỏ nằm xen kẽ nhau; thuỳ hình trứng hay hinh bầu dục, phần lớn có lông nhung thưa; cuống lá dài 2,5-5 cm. Cụm hoa dạng xim bọ cạp ghép cặp, mọc ở nách lá, đối diện với lá hoặc ở đỉnh cành; cuông hoa có khớp gần như ở giữa, dài 1-2 cm. Đài có lông tơ thưa; thuỳ đài hình mũi mác. Tràng mầu trắng, hồng hoặc lam-tím, đường kính 2,5-3 cm; thuỳ tràng hình tam giác, dài 5 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 5-6 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 8 mm. Quả mọng mầu lục hoặc lục vàng nhạt, thường có sọc vằn, hình cầu, nhẵn, đường kính 1,5 cm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả vào hè hoặc thu.
Phân bố: Trồng khá phổ biến ở Việt Nam nhất là các tỉnh trung du và miền núi. Nguồn gốc từ Nam Mỹ, được trồng rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới trên thế giới.
Alcaloid: Toàn cây có chứa Solanin, ở củ khoai tây mới dỡ chứa rất ít Solanin. Nhưng trong củ khoai tây mà vỏ đã xanh (do để ngoài ánh sáng mặt trời hay đã nảy mầm) tỷ lệ Solanin tăng lên cao và có thể gây ra ngộ độc (Đỗ Tất Lợi, 2005).
Giá trị sử dụng: Đây là loại cây có giá trị kinh tế cao. Củ làm lương thực và thực phẩm. Ăn khoai tây có tác dụng nhuận tràng. Nước ép củ dùng chữa bệnh cường toan acid dạ dày và làm co bóp nhu động ruột. Củ khoai tây sống thái lát đắp chữa vết thương, vết bỏng. Hoà pha nước uống làm hạ huyết áp (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Solanin có thể dùng (liều thấp) làm thuốc giảm đau, trong các trường hợp đau bụng, đau vùng gan, nhức khớp xương (Đỗ Tất lợi, 2005) [10].
6.11. Solanum seaforthianum Andr. – Cà kiểng
Tên đồng nghĩa: S. kerrii Bonati
Đặc điểm thực vât: Bụi nhỏ hơi trườn, sống nhiều năm. Lá xẻ thuỳ hình lông chim, cỡ 4-10 x 4-7 cm, chóp nhọn hoặc có mũi nhọn, gốc nhọn, tù, cụt, hoặc tim, luôn có (3-)7(-9) thuỳ; thuỳ lá hình trứng, bầu dục hẹp hình mũi mác, không dều, cỡ 1,5-5 x 0,5-2,5 cm, chóp nhọn hoặc có mũi nhọn, có lông tơ dọc gân; cuống lá dài 2-5 cm. Cụm hoa dạng chuỳ thường xuất hiện ở đỉnh cành; cuống hoa dài 5-10 mm. Đài hình chén, cỡ 1-1,5 x 2-3 mm, cụt hoặc có thuỳ hình tam giác nhỏ, nhẵn. Tràng mầu tím, hiếm khi trắng, dài 0,9-1,3 cm; thuỳ tràng hình trứng hẹp, cỡ 5-8 x 2,5-4,5 mm, nhẵn. Chỉ nhị dài 203 mm; bao phấn rời, dài 3-4 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 1 cm. Quả đỏ, mọng nước, hình cầu, đương kính 1-2 cm. Hạt hình đĩa, đường kính 2-3,5 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả gần như quanh năm.
Phân bố: Hải Phòng (Cát Bà), Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng. Trồng ở nhiều nơi trong nước ta. Gặp ở Thái Lan. Nguồn gốc từ châu Mỹ.
Giá trị sử dụng: Làm cảnh.
6.12. Solanum robinsonii Bonati – Cà robinson
Đặc điểm thực vật: Cây bụi nhỏ, cao 1 m, không có gai. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 4-5 x 2-2,5 cm, chóp tròn hoặc nhọn, gốc nêm, mép nguyên hoặc lượn sóng, mặt trên mầu lục sẫm, có lông hình sao thưa, mặt dưới mầu lục nhạt, có lông hình sao dày; cuống lá dài 5-10 mm. Cụm hoa dạng chùm đơn, mọc ở ngoài nách lá hoặc ở đỉnh cành; cuống chung dài 15-25 mm; cuống hoa dài 5-12 mm. Đài hình chuông; ống đài dài 3 mm; thuỳ đài hình mũi mác, dạng dùi ở đỉnh. Tràng mầu lam tím, đường kính 20 mm; thuỳ tràng hình mũi mác, nhọn đầu, dạng màng ở mép, dày ra ở khoang giữa và có lông nhung phía dưới. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 8-9 mm. Quả mọng vàng, bóng, đường kính 1 cm. Hạt trắng, dạng thận, sần sùi, có gân mạng lưới, đường kính 3 mm.
Sinh học và sinh thái: Mọc rải rác ven đường, lùm bụi, bãi hoang.
Phân bố: Mới chỉ thấy ở Khánh Hoà (Nha Trang)
6.13. Solanum nienkui Merr. & Chun – Cà cụm hoa dài
Đặc điểm thực vật: Cỏ hoặc bụi đứng, cao 50-100 cm, thường phân nhánh. Thân tròn, có lông hình sao, thường có gai nhỏ cao khoảng 1 mm. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 4-11 x 2-6 cm, chóp lá nhọn hay tù, gốc là hình nêm, mép lá nguyên hoặc gần như nguyên, mặt trên có lông hình sao thưa, mặt dưới có lông hình sao dày; gân bên 4-5 cặp; cuống lá dài 1-4,5 cm, có lông hình sao dày. Cụm hoa dạng chùm đơn, dài 3-8 cm, mọc ở ngoài nách lá, hiếm khi ở đỉnh cành; cuống hoa dài 5-10 mm, có lông hình sao. Đài hình chuông, dài 4-6 mm, mặt ngoài có lông hình sao dày, mặt trong hầu như không có lông; thuỳ đài hình tam giác, không đều, cao 4-6 mm, mặt ngoài có lông dày, mặt trong hầu như không có lông. Chỉ nhị dài 0,5-1 mm, bao phấn dài 4-6 mm. Bầu nhẵn, vòi nhuỵ dài 5-6 mm. Quả mọng, hình cầu, đường kính 1 cm. Hạt dẹp, hình thận, đường kính 1,5-2 mm, có gân mạng lưới.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả quanh năm. Mọc ở nơi sáng và ẩm ven rừng, ven suối.
Phân bố: Đắk Lắk (Krông Pắc: Hoà Lễ). Còn có ở Trung Quốc.
6.14. Solanum procumbens Lour. – Cà gai leo
Tên đồng nghĩa: S. hainanense Hance
Tên khác: Quánh, Cà quạnh, Cà quýnh, Cà bò, Cà vạnh, Cà gai dây, Cà hải nam.
Đặc điểm thực vật: Cỏ bò rồi đứng hay leo, dài tới 6 m, phân cành nhiều; cành non toả rộng, phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong mầu vàng, dài 2-5 mm. Lá hình trứng, hình bầu dục hoặc hình bầu dục hẹp, cỡ 2-5,5 x 1,2-3 cm, chóp tù hoặc nhọn, gốc nêm hoặc tròn, mép thường có 5 thuỳ lượn sóng, hiếm khi nguyên, mặt trên có lông hình sao thưa, mặt dưới có lông hình sao dày, có gai trên cả hai mặt; cuống lá dài 0,4-0,5 cm. Cụm hoa dạng tán ở đỉnh cành, hiếm khi xuất hiện ngoài nách lá; cuống chung dài 3-5 mm. Hoa mẫu 4; cuống hoa dài 12-15 mm. Đài hình chén, dài 3-4 mm; thuỳ đài hình tam giác, không đều, dài 1-2 mm, ở mặt ngoài có lông măng hình sao. Tràng mầu trắng hoặc tím nhạt, dài 1cm; thuỳ tràng hình mũi mác, dài 6-7 mm, ở mặt ngoài có lông hình sao. Nhị 4; chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 6 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 7 mm, có lông ở gốc. Quả mọng đỏ sáng, hình cầu, đường kính 5-7 mm. Hạt mầu vàng nhạt, dạng thận, cỡ 4 x 2 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 4-12. Mọc rải rác ven rừng, lùm bụi, bãi hoang, ven đường, ở độ cao dưới 300 m.
Phân bố: Sơn La (Mộc Châu), Bắc Giang (Yên Thế), Phú Thọ (Việt Trì), Hà Tây (Quốc Oai: Chùa Thày), Hà Nội (Từ Liêm), Hải Phòng (Thuỷ Nguyên: Lưu Kiếm), Quảng Trị (Vĩnh Linh: Bến Hải), Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên Huế (Phú Lộc), Gia Lai (An Khê, Kon Hà Nừng). Còn có ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam).
Alcaloid: Toàn cây, nhất là rễ, có chứa Solasodin, Solasodinin. Ngoài ra còn có Diosgenin (Võ Văn Chi, 2003) [2].
Giá trị sử dụng: Rễ và quả dùng trị mụn nhọt, lở ngứa (Phạm Hoàng Hộ, 1993) [4]. Trong rễ có chứa Solasodin. Dùng trị cảm cúm, ho gà, đau lưng, nhức xương, thấp khớp, sâu răng, rắn cắn (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Nước sắc của rễ uống chống say rượu (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10]. Có thể chống viêm, chống oxy hoá, ức chế sự phát triển xơ gan, đồng thời còn có tác dụng tốt trên các Marker virus viêm gan B (Nguyễn Minh Khai & cs. 2001) [8]
6.15. Solanum trilobatum L. – Cà ba thuỳ
Đặc điểm thực vật: Cỏ bò hay leo. Thân có gai dẹp cong ở đầu, các phần non có lông hình sao. Lá hình trứng rộng hoặc gần như hình tròn, cỡ 4 x 2,5 cm, chóp tròn, gốc nêm hoặc cụt, thường có 3-5 thuỳ; gân giữa không hoặc có gai ở mặt dưới; cuống lá dài 1,5-3 cm, mảnh. Cụm hoa dạng xim bọ cạp mọc ở ngoài nách lá, hiếm khi hoa (mọc) đơn độc; cuống hoa dài 15-30 mm, thường không có gai. Đài nhẵn, hình chuông, dài 2-3 mm, xẻ thuỳ sâu; thuỳ đài hình mũi mác, có mũi nhọn kéo dài ở đỉnh. Tràng mầu tím; thuỳ tràng hình trứng, dài 15 mm, có lông tơ ở mặt ngoài. Chỉ nhị dài 1 mm, bao phấn dài 7-8 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài hơn nhị và cong ở đỉnh đầu. Quả mọng vàng hay tím đen, đường kính 7-10 mm. Hạt dạng thận, dẹp, có gân mạng lưới, đường kính 3 mm.
Sinh học và sinh thái: Mọc rải rác ven rừng, lùm bụi, ven đường, ở độ cao dưới 400 m.
Phân bố: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang (Gò Công). Còn có ở ấn Độ, Thái Lan, Malaixia.
Alcaloid: Trong cây có chứa Solanin (Võ Văn Chi, 2003) [2].
Giá trị sử dụng: Rễ và chồi lá dùng trị bệnh lao; quả và hoa trị ho, viêm phế quản mãn tính; quả còn làm thuốc bổ đắng (Võ Văn Chi, 2003) [2].
6.16. Solanum torvum Sw. Cà nồng
Tên khác: Cà dại hoa trắng, Cà hoang gai, Cà dữ.
Đặc điểm thực vật: Cây bụi, cao 1-3 m. Thân có gai vàng nhạt hoặc hơi đỏ chắc, cong, cỡ 2,5-7 x 2-8 mm và thỉnh thoảng có lông hình sao ở gốc. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 8-25 x 6-18 cm, chóp nhọn, gốc tim hoặc nêm, mép lượng sóng hoặc có 5-7 thuỳ, có lông hình sao; cuống lá dài 2-10 cm. Cụm hoa dạng chùm phân nhánh mọc ở ngoài nách lá, với nhiều hoa; cuống chung phần lớn 1 hoăch 2 nhánh, dài 1-3 cm, có lông hình sao; cuống hoa mảnh, dài 5-8 mm, có lông tuyến và lông hình sao. Đài hình chén, dài 4-5 mm, có lông tơ; thuỳ đài hình trứng-mũi mác, dài 2-3 mm. Tràng mầu trắng, dài 10-13 mm, có lông hình sao ở mặt ngoài; thuỳ tràng hình trứng hẹp, dài 8-10 mm. Chỉ nhị dài 1-1,5 mm; bao phấn dài 4-7 mm. Bầu có lông tuyến ở chóp; vòi nhuỵ nhẵn, dài 6-8 mm. Quả mọng vàng, nhẵn, đường kính 1-1,5 cm. Hạt hình đĩa, đường kính 1,5-2 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả gần như quanh năm. Mọc rải rác ven rừng, trên các bãi hoang, lùm bụi, ven đường, ở độ cao dưới 1000 m.
Phân bố: Lai Châu (Bình Lư), Điện Biên (Mường Phăng), Lào Cai (Bắc Hà), Sơn La (Thuận Châu, Mộc Châu), Tuyên Quang (Na Hang), Cao Bằng, Thái Nguyên (Võ Nhai), Lạng Sơn, Quảng Ninh, Phú Thọ (Hạ Hoà: Ao Châu; Thanh Sơn: Xuân Sơn), Vĩnh Phúc (Mê Linh, Tam Đảo), Bắc Giang, Hà Tây, Hà Nội (Phủ Lỗ), Hoà Bình (Lương Sơn, Mai Châu, Lạc Thuỷ), Hải Dương, Hải Phòng (Đồ Sơn), Hà Nam (Kim Bảng), Ninh Bình (Cúc Phương), Nghệ An (Pù Mát), Quảng Bình (Phong Nha; Bố Trạch: Ba Rền), Quảng Trị (Bến Hải), Thừa Thiên Huế (A Lưới, Hải Vân, Hương Thuỷ: Hương Phú; Phú Lộc: Rừng Nông), Kon Tum (Ngọc Linh; Đắk Glây, Đắk Tô, Kon Plông) Gia Lai (An Khê), Đắk Lắk (Krông Pắc: Khuê Ngọc Điền), Đắk Nông (Quảng Phú), Lâm Đồng (Bảo Lộc, Đức Trọng), Nam Bộ. Còn phổ biến ở các nước nhiệt đới.
Giá trị sử dụng: Lá làm ngủ, lợi tiểu (Phạm Hoàng Hộ, 1993) [4]. Rễ dùng trị đau vùng thắt lưng, đòn ngã tổn thương, đau dạ dày, đau răng, bế kinh; lá tươi giã đắp đinh nhọt, viêm mủ da (Võ Văn Chi, 1997) [2]. Quả xanh có thể dùng chế bột cary (Phạm Hoàng Hộ, 1993) [4]. Quả có thể được dùng làm rau ăn vì trong 100 g quả phơi khô có chứa 8,3g protein, 1,7 g chất béo, muối khoáng, Ca, Fe, vitamin A (Đỗ Huy Bích, 1995) [1]
6.17. Solanum violaceum Ortega – Cà dại hoa tím
Tên đồng nghĩa: S. indicum auct. non L.
Tên khác: Cà ấn, Cà dại hoa xanh.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao đến 60-100 cm; thân có lông hình sao và gai cứng. Lá hình trứng, cỡ 5-13 x 2,5-8,5 cm, chóp tù hoặc nhọn, gốc tim hoặc cụt, mép 5-7 thuỳ lượn sóng, có lông hình sao trên cả hai mặt, có gai như kim thẳng; cuống lá dài 1,5-4 cm. Cụm hoa dạng chùm mọc ở ngoài nách lá, dài 2-6 cm, có lông tơ và gai; cuống chung dài 1,5 cm; cuống hoa dài 4-15 mm. Đài dài 4-7 mm; thuỳ đài hình mũi mác, không đều, dài 3-5 mm, có lông tơ và gai. Tràng mầu lam-tím, cỡ 1-1,2 x 1-2 cm; thuỳ tràng hình trứng, cỡ 5-8 x 2-5 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 5-6 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 8-10 mm, có lông hình sao. Quả mọng da cam sáng, hình cầu, đường kính 0,8-1,3 cm; đài quả cong gập góc. Hạt gần như hình đĩa, đường kính 2 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả quanh năm. Mọc rải rác trên các bãi hoang, lùm bụi, ruộng, ven đường, nơi sáng.
Phân bố: Điện Biên, Hà Giang (Đồng Văn), Cao Bằng (Thị xã Cao Bằng), Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Tây, Hà Nội (Phủ Lỗ, Yên Phụ, đường Hoàng Hoa Thám, Vĩnh Tuy), Hoà Bình, Hải Phòng, Hà Nam (Kim Bảng), Nam Định, Ninh Bình, Quảng Trị, Kon Tum, Lâm Đồng (Đà Lạt, Bảo Lộc). Nam Bộ. Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Malaixia.
Alcaloid: Trong rễ và lá có chứa Solanin, Solanidin (Võ Văn Chi, 1997) [2].
Giá trị sử dụng: Quả ăn được, kích dục; rễ lợi tiểu (Phạm Hoàng Hộ, 1993) [4]. Làm thuốc trị sưng Amydal, đau dạ dày, đau răng, đòn ngã tổn thương; cũng dùng trị hen xuyễn, ho, sinh đẻ khó, sốt, bệnh giun, đau bụng (Võ Văn Chi, 2003) [2]. Hạt rang cháy lấy khói xông và than giã nhỏ xát chữa đau răng, sâu răng (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10].
6.18. Solanum cyanocarphium Blume – Cà trái lam
Đặc điểm thực vật: Cỏ bò, cao 30-50 cm. Thân mảnh, thường có mầu tím, có gai và lông hình sao; phân cành không đều, thường có một cành thẳng, dài và to hơn các cành khác. Lá hình trứng, cỡ 3-8 x 2-4 cm, chóp nhọn, gốc mêm hoặc nhọn, mép lượn sóng hay có thuỳ nông, cả hai mặt đều có gai thưa và lông hình sao, gân bên 3-5 cặp; cuống lá dài 1,5-2 cm. Hoa (mọc) đơn độc hoặc thỉnh thoảng ghép đôi ở ngoài nách lá; cuống hoa mảnh, dài 0,5-3 cm, có gai nhỏ. Đài có gai; thuỳ đài hẹp. Tràng mầu tím, dài 0,7-1 cm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 6 mm. Bầu có lông tuyến, ngắn mảnh. Quả mọng, hình cầu, đường kính 1-1,5 cm, được bao bọc bởi đài đồng trưởng.
Sinh học và sinh thái: ra hoa tháng 3. Mọc rải rác ven rừng, ven suối, chỗ sáng.
Phân bố: Kon Tum (Đắk Glây: Đắk Môn), Gia Lai (Chư Prông); Bình Phước (Đồng Xoài). Còn có ở Inđonêxia.
6.19. Solanum thorelii Bonati – Cà thorel
Đặc điểm thực vật: Cỏ leo hay bò; thân có gai thưa. Lá thường mọc thành từng cặp không đều; phiến lá hình trứng, cỡ 4-5 x 1,5-2,5 cm, chóp nhọn, gốc nhọn hoặc nêm, mép có thuỳ, có lông hình sao thưa ở cả hai mặt, có gai ở gân chính; cuống lá dài 5-20 mm, có lông tơ, đôi khi có gai. Hoa (mọc) đơn độc hay dạng xim bọ cạp ở ngoài nách lá; cuống hoa dài 3 cm. Đài hình chuông, có lông hình sao và có gai thẳng dài; ống đài dài 4-5 mm; thuỳ đài hình tam giác, dạng chỉ ở đỉnh, đài 4 mm, nhiều lông tơ. Tràng mầu trắng, dài 6-7 mm; thuỳ tràng hình mũi mác có đỉnh nhọn, dài 3-4 mm. Chỉ nhị dài 1 mm, bao phấn dài 4-5 mm. Bầu và vòi nhuỵ nhẵn. Quả mọng vàng hoặc đỏ nhạt, hình cầu, đường kính 12-15 mm; đài ở quả rất phát triển, dài 10-12 mm, có thuỳ dạng màng, nhẵn, hình trứng rộng. Hạt có lông tơ, dạng đĩa, đường kính 2-3 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 4-7. Gặp rải rác trong rừng thứ sinh, ven rừng, nương rẫy, lùm bụi, ở độ cao 200-800 m.
Phân bố: Sơn La (Hát Lót), Lào Cai (Đản khao: Bản Lót), Hà Tây (Ba Vì; Ba Trại), Nghệ An (Anh Sơn: Kim Nhan), Tây Ninh (Cầy Cống), Đồng Nai (Biên Hoà).
6.20. Solanum neogriffithii V. V. Hop – Cà đài bao quả
Tên đồng nghĩa S. barbisetumvar. griffithii Prain
S. griffithii (Prain) C. Y. Wu & S. C. Huang
Đặc điểm thực vật: Cỏ hoặc nửa bụi, cao 50-100 cm. Cành non có lông hình sao mịn, có gai thẳng chắc. Lá thường mọc thành từng cặp không đều, phiến lá hình trứng rộng, trứng ngược hay bầu dục, cỡ 6-14 x 4-12, chóp lá nhọn, gốc lá tù hoặc hình nêm, mép lá thường có 7-9 thuỳ nông, cả hai mặt đều có lông hình sao; gân bên 4-6 cặp, có gai như trên gân chính; cuống lá dài 2-4 cm, có gai và có lông hình sao như ở cành. Cụm hoa chùm mọc ngoài nách lá; cuống hoa dài 0,7-1 cm, có gai nhỏ và có lông hình sao. Đài hình chuông dài 7 mm, có lông hình sao và gai nhỏ; thuỳ đài hình mũi mác, dài 4 mm, có lông hình sao ở cả mặt trong. Tràng mầu trắng, dài 1,2-1,5 cm; thuỳ tràng hình mũi mác, cỡ 6-1,5 mm, có lông hình sao dày ở mặt ngoài. Chỉ nhị dài 1-1,5 mm; bao phấn hình mũi mác, dài 5,5-6 mm. Bầu nhẵn, cao 1-1,5 mm; vòi nhuỵ dài 5,5-6 mm. Quả mọng hình cầu, nhẵn, đường kính 1-1,2 cm, được bao phủ gần như trọn vẹn bởi đài đồng trưởng có lông hình sao và nhiều gai nhỏ mầu vàng nhạt. Hạt tròn, đường kính 2,5 mm.
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa quả tháng 4-10. Mọc ở ven đường, trên nương dãy, bụi rậm ven rừng, ở vùng núi đá vôi.
Phân bố: Lạng Sơn (Đồng Mô), Hà Tây (Ba Vì, Ba Trại), Ninh Bình (Chợ Gềnh). Còn có ở ấn Độ, Mianma, Trung Quốc.
6.21. Solanum lasiocarpum Dun. – Cà hung
Tên đồng nghĩa: S. mammosum auct. Non L.
Tên khác: Cà trái lông.
Đặc điểm thực vật: Cỏ thành bụi dày, cao 1-1,5 (-2) m, có lông tơ dày và lông hình sao mầu vàng nhạt. Cành có gai hơi cong hoặc thẳng, dẹt dài 1-9 mm. Lá hình trứng, cỡ 9-25 x 6-22 cm, chóp nhọn, gốc cụt hoặc gần dạng mác, mép có 5-11 thuỳ, có lông tơ trên cả hai mặt, mặt dưới dày hơn, có gai dọc gân; cuống lá dài 3-12 cm, có lông hình sao và gai thẳng. Cụm hoa dạng chùm ở ngoài nách lá, 1-8 hoa; cuống chung ngắn; cuống hoa dài 1 cm. Đài dài 8-10 mm, có thuỳ hình trứng. Tràng mầu trắng, dài 1-1,2 cm. Chỉ nhị rất ngắn; bao phấn hình mũi mác, đỉnh thành mũi nhọn, dài 7-8 mm. Bầu có lông; vòi nhuỵ dài 9 mm, nhẵn. Quả chín mầu da cam, hình cầu, đường kính 2,5-3 cm, có lông hình sao dày; đài quả bao bọc một phần quả. Hạt mầu nâu, đường kính 2 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 6-12. Mọc ở nơi ướt ở thung lũng và khe núi, bụi cây, rừng mở, gần đường, nơi ẩm, rừng dày; ở độ cao 200-1000 m
Phân bố: Lạng Sơn (Hữu Lũng), Thanh Hoá (Cẩm Thuỷ: Cẩm Bình), Nghệ An (Quỳ Châu, Tương Dương: Tam Đình), Kon Tum (Sa Thày), Gia Lai (An Khê: Song Lang), Đắk Lắk (Đắk Mil), Biên Hoà (Giá Ray), Cà Mau. Còn có ở ấn Độ,Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Xrilanca.
Giá trị sử dụng: Cũng có giá trị sử dụng như loài S. ferox.
6.22. Solanum ferox L. – Cà dử
Tên đồng nghĩa: S. stramonifolium auct. non Jacq.
Tên khác: Cà trời.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1-1,5 m, mọc thành bụi dày, thân có lông hình sao mịn và có gai đứng nhọn. Lá hình trứng rộng, cỡ 7-28 x 7-21 cm, chóp nhọn, gốc thường không đều, có thuỳ nông, có gai trên đường gân ở cả hai mặt; cuống lá dài 5-16 cm. Cụm hoa dạng chùm, cuống chung rất ngắn, 4-10 hoa; cuống hoa dài 1,2-2 cm, có lông hình sao dày và gai mảnh. Đài hình chuông, 5 thuỳ, có lông, có gai. Tràng màu trắng hoặc tím, xẻ thuỳ sâu; thuỳ tràng hình trứng hẹp, mặt ngoài có lông hình sao. Bao phấn dài 5-7 mm. Bầu có lông. Quả mọng có lông hình sao, đường kính 2-2,5 cm; đài ở quả bao bọc gần kín quả, có lông hình sao và gai mảnh. Hạt mầu vàng nhạt, dạng thận, dài 2-2,5 mm.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 5-7. Mọc rải rác trên các bãi hoang, lùm bụi, ven đường, ở độ cao 100-1500 m.
Phân bố: Gia Lai (Chư Prông, Chư Pả), Khánh Hoà (Nha Trang), Biên Hoà (Giá Ray, núi Chua Chan). Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philippin.
Giá trị sử dụng: Quả làm gia vị chua trong chế biến cary. Hạt đốt xông hơi chữa đau răng. Rễ nấu nước tắm trị sốt về đêm; giã trị đắp ghẻ, các vết thương, dao chém và đau bìu dái (Võ Văn Chi, 1997) [2].
6.23. Solanum mammosum L. – Cà vú
Tên khác: Cà vú dê, cà vú bò
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1,5 m, có lông dày và gai. Thân có nhiều lông đơn tuyến, thỉnh thoảng có gai vàng nhạt hơi cong, cỡ 4-12 x 3-5 mm. Lá phần lớn mọc thành từng cặp không đều; phiến lá hình trứng rộng hoặc gần tròn, cỡ 5-13 x 5-13 cm, chóp nhọn hoặc tù, gốc tim, mép (3-)5(-7) thuỳ, có lông nhung; trên đường gân chính có gai như kim, dài 0,5-3 cm; cuống lá dài 2-8,5 cm. Cụm hoa dạng xim bọ cạp mọc ở ngoài nách lá; cuống chung ngắn; cuống hoa dài 5-10 mm. Đài có lông tơ; thuỳ đài hình trứng hẹp, dài 5-6 mm. Tràng mầu tím, đường kính 2,5-3,2 cm; thuỳ đài hình mũi mác, cỡ 2-2,2 x 0,4 cm, có lông nhung ở mặt ngoài. Nhị gần như không đều, chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn hình mũi mác hẹp, dài 1-1,2 cm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 3 mm. Quả mọng vàng đậm, dạng quả lê, cỡ 5-8 x 3-4 cm, với 1-5 núm vú ở gốc; vỏ quả giữa trắng, xốp. Hạt mầu nâu đậm, dẹt, đường kính 3-4 mm.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa quả tháng 7-12
Phân bố: Trồng và mọc hoang dại hoá ở Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn (Tràng Định: Quốc Khánh), Nghệ An (Pù Mát), Lâm Đồng (Đà Lạt), Đồng Tháp và nhiều nơi khác. Nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ.
Alcaloid: Trong rễ, thân, quả có chứa Solasodin (Trần Văn Thanh & Phương Thiện Thương, 2001) [11].
Giá trị sử dụng: Làm cảnh. Quả độc, diệt sâu bọ. Cả cây dùng trị bệnh tràng nhạc (Võ Văn Chi, 2005) [2]
6.24. Solanum capsicoides All. – Cà dại quả đỏ
Tên đồng nghĩa - S. xanthocarpum auct. non Schrad. & Wendl.
- S. suranttense auct. non Burn. F.
Tên khác: Cà dạng ớt, Cà nhiều gai.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 70-100 cm, phân nhánh nhiều, có lông đơn và có gai như kim mầu vàng nhạt. Thân có lỗ vỏ trắng nổi bật, nhẵn hay có lông, có gai thẳng dài 0,5-1,8 cm. Lá thường mọc thành từng cặp không đều; phiến lá hình trứng rộng cỡ 5-16 x 4-16 cm, chóp nhọn hoặc có mũi nhọn, gốc tim, mép lá có 5-7 thuỳ, có lông đơn ở mặt trên, nhẵn hoặc có lông dọc gân ở mặt dưới, có gai ở dọc các đường gân trên cả hai mặt; cuống lá chắc, dài 2-9 cm. Hoa (mọc) đơn độc hay dạng xim bọ cạp, ở ngoài nách lá; cuống hoa dài 5-15 mm. Đài hình chén, cỡ 5 x 8 mm; thuỳ đài hình trứng có lông tơ. Tràng mầu trắng, hơi lục tại gốc; thuỳ hình mũi mác, cỡ 12 x 4 mm. Chỉ nhị dài 2,5 mm; bao phấn hình mũi mác, dài 6 mm. Bầu có cuống tuyến nhỏ, vòi nhuỵ dài 7-8 mm. Quả mọng đỏ, gần như hình cầu, đường kính 2-3 cm, vỏ quả dữa trắng, mềm (xốp); đài ở quả phát triển bao phủ một phần quả. Hạt mầu vàng nhạt, hình đĩa, có cánh hình tròn mỏng dễ thấy, đường kính 4-6 mm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 6-10. Mọc rải rác trên các bãi hoang, ven đường, vùng mở, bụi cây, ở độ cao 200-1500 m.
Phân bố: Lào Cai ( Bắc Hà), Cao Bằng (Nguyên Bình), Bắc Cạn (Chợ Đồn), Lạng Sơn (Cao Lộc), Hà Nội, Hoà Bình (Lương Sơn), Nam Định (Xuân Thuỷ), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hoá (Bá Thước, Sầm Sơn). Còn có ở các nước châu á và châu Phi. Nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ (Braxin).
Alcaloid: Trong lá và quả có chứa Solasonin (Võ Văn Chi, 2003) [2]
Giá trị sử dụng: Được dùng trị đòn ngã tổn thương, viêm phế quản mãn tính, phong thấp đau lưng, mụn nhọt độc, nứt nẻ, đau dạ dày (Võ Văn Chi, 1997) [2].
6.25. Solanum viarum Dun. – Cà trái vàng
Tên đồng nghĩa - S. xanthocarpum acut. Non Schrad. & H. Wendl.
- S. virginianum auct. non L.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 50-80 cm. Thân có gai cong rộng ở gốc, cỡ 2-9 x 2-6 mm và nhiều gai nhỏ dài 0,5-1 mm. Lá thường mọc thành từng cặp không đều, có gai thẳng dài 6-23 mm; phiến lá hình trứng rộng, cỡ 4,5-14 x 4-12 cm, chóp nhọn, gốc hình tim, mép thuôn 5-7 thuỳ nhọn, cả hai mặt đều có lông đơn thô và gai thẳng, ở mặt dưới còn có cả lông hình sao thưa; cuống lá chắc, dài 1,5-7,5 cm. Hoa (mọc) đơn độc hay dạng xim bọ cạp (hoa đỉnh là hoa lưỡng tính và các hoa còn lại thường là hoa đực), mọc ở ngoài nách lá. Đài hình chuông, dài 3 mm; thuỳ đài hình trứng, dài 1,5 mm, có gai và lông dày. Tràng mầu trắng xanh, dài 7-8 mm; thuỳ tràng xẻ sâu, hình mũi mác, dài 6-7 mm, mặt ngoài có lông tơ. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn hình mũi mác có mũi nhọn, dài 5,6-6 mm. Bầu có lông; vòi nhuỵ dài 5-6 mm, nhẵn. Quả mọng vàng nhạt, hình cầu, đường kính 2-2,5 cm; cuống quả dài 1,5-2 cm. có gai và lông hình sao thưa. Hạt gần như dạng thận, đường kính 2,5 mm; có gân mạng lưới.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 6-10. Mọc rải rác ở các bãi hoang, lùm bụi ở mọi độ cao đến 1500 m.
Phân bố: Phú Thọ (Thanh Sơn: Xuân Sơn), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Nội, Hoà Bình (Mai Châu), Ninh Bình, Nghệ An (Diễn Châu), Quảng Nam (Ngọc Linh), Kon Tum, Lâm Đồng (Đà Lạt). Nguồn gốc từ Nam Mỹ, có phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu á và châu Phi.
6.26. Solanum album Lour. – Cà Pháo
Tên đồng nghĩa: S. undatum auct. non. Poir.
Tên khác: Cà cỏ, cà tường niên.
Đặc điểm thực vật: Cỏ hàng năm, thân hoá gỗ, ngoằn nghèo, phân nhánh, cao đến 2,8 m, ít hoặc không có gai, có lông ở phần non. Cành tách đôi rộng, xoè hoặc rủ. Lá hình trứng, cỡ 5-12 x 3-8 cm, chóp tù, gốc bất xứng, dạng nêm hoặc gần như hình tim, có thuỳ nông hoặc sâu, thường không có gai; cuống lá dài 1-3 cm. Hoa (mọc) đơn độc hay cụm hoa dạng xim bọ cạp (hoa đỉnh lưỡng tính, các hoa còn lại thường là hoa đực) mọc ở ngoài nách lá; cuống chung dài 5-10 mm; cuống hoa dài 10-15 mm, thường có lông. Đài dài 4-5 mm, có góc cạnh, có lông, không gai; thuỳ đài hình mũi mác nhọn, dài 1-2,5 mm. Tràng mầu trắng hay tím, có lông mặt ngoài, rộng 2 cm; thuỳ tràng hình tam giác ngắn và rộng, đầu nhọn. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 4 mm. Quả thường mầu trắng có bớt xanh, hình cầu, đường kính 1,5 cm. Đài quả dài 8-10 mm. Hạt hình đĩa, đường kính 2,5 cm.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả gần như quanh năm.
Phân bố: Trồng khá phổ biến ở Việt Nam.
Giá trị sử dụng: Quả ăn được, thường dùng để muối ăn dần, ăn rất dòn, như nổ trong miệng. Quả cà muối được dùng để chữa đau răng, viêm lợi; lấy cà muối lâu năm đốt tồn tính, xát than này vào răng lợi. Còn dùng để chữa chín mé ngón tay, hoặc bổ đôi quả cà đút ngón tay bị chín mé vào, băng lại ngày một lần (Võ Văn Chi, 2003) [2]
6.27. Solanum incanum L. – Cà gai
Tên đồng nghĩa: S. coagulansForsk.
Tên khác: Dã gai, Trom nhôm.
Đặc điểm thực vật: Cỏ đứng, cao 0,5-1 m; thân và lá có lông dày mầu vàng và nhiều gai. Lá hình trứng hoặc bầu dục, cỡ 5-12 (-14,5) x 4-7 cm, chóp nhọn hoặc tù, gốc tù hoặc cụt, mép 5(-7) thuỳ; có lông, có gai chắc ngắn trên đường gân; cuống lá dài 1-4 cm. Hoa (mọc) đơn độc hay cụm hoa dạng xim bọ cạp mọc ở ngoài nách lá; hoa đỉnh lưỡng tính, các hoa còn lại thường là hoa đực; cuống hoa dài 1,5-2 cm. Đài hình chuông, dài 6-9 mm; thuỳ đài hình mũi mác, cỡ 5 x 2 mm, có lông hình sao dày đặc. Tràng mầu tím hoặc trắng cỡ 1,5-2 x 1,5-3 cm; thuỳ tràng hình tam giác hoặc hình trứng, cỡ 10 x 5 mm, có lông hình sao ở mặt ngoài. Chỉ nhị dài 1,5-1,8 mm; bao phấn hình bầu dục, dài 4 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 5-6 mm, nhẵn hoặc có lông. Quả mọng vàng, hình cầu, đường kính 2-3 cm, nhẵn; cuống quả dài 2,5-5 cm; có lông hình sao thưa và có gai. Hạt dạng thấu kính lồi, đường kính 2-3 mm.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 3-7, có quả tháng 5-10. Mọc rải rác trên các bãi hoang, lùm bụi, ven đường, quanh làng.
Phân bố: Điện Biên (Tuần Giáo); Lạng Sơn (Cao Lộc), Hà Nội (Vĩnh Tuy), Hà Nam (Kiện Khê), Nghệ An (Quỳ Châu, Kẻ Cạn), Kon Tum (Đắk Glây: Ngọc Linh), Khánh Hoà, Ninh Thuận (Phan Rang), Đồng Nai. Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, Inđônêxia.
Giá trị sử dụng: Làm thuốc trị sưng khớp, viêm tinh hoàn; hạt ngâm rượu chữa sâu răng (Võ Văn Chi, 2003) [2].
6.28. Solanum melonga L. – Cà
Tên đồng nghĩa: S. aethiopicum auct. non L.
Đặc điểm thực vật: Cỏ một năm, cao tới 1 m, có lông hình sao mịn. Thân và cành có ít lông măng, thỉnh thoảng có gai cong chắc. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 6-18 x 5-11 cm, chóp nhọn hoặc tù, gốc không đều, mép có thuỳ lượn sóng, có lông măng hình sao hoặc thỉnh thoảng có ít gai mảnh trên cả hai mặt, ở mặt dưới dầy hơn; cuống lá dài 2-4,5 cm. Cụm hoa dạng xim bọ cạp (có hoa đỉnh lưỡng tính, các hoa còn lại thường là hoa đực) hay hoa (mọc) đơn độc, ở ngoài nách lá; cuống hoa dài 1-1,8 cm. Đài có lông hình sao, thường có gai dài tới 3 mm ở mặt ngoài; thuỳ đài hình mũi mác. Tràng mầu tía hoặc tím, dài tới 3-5 cm; thuỳ tràng hình tam giác, dài 1 cm. Chỉ nhị dài 2,5 mm; bao phấn dài 7,5 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 4-7 mm, nhẵn hoặc có lông; núm nhuỵ thường 2-3 thuỳ. Quả mọng đen, tia, hồng nâu, vàng hoặc vàng nhạt khi chín hoàn toàn, có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau, phần lớn đường kính hơn 6 cm; vỏ quả giữa và vùng vách hơi trắng, xốp dày. Hạt mầu vàng nhạt, dạng thấu kính lồi, cỡ 3-4 x 2,5-3,5 mm
Phân bố: Trồng phổ biến ở Việt Nam.
Giá trị sử dụng: Quả làm rau ăn (luộc, nấu canh, muối dưa). Hạt trị suyễn và ho khan (Phamh. 1993) [4]. Lá dùng trị đắp ngoài làm dịu các vết bỏng, áp xe, bệnh nấm trĩ. Quả chữa tràng nhạc, táo bón, giảm niệu; rễ, cuống hoa và cuống quả sắc uống chữa đại tiểu tiện ra máu, phụ nữ rong kinh; cũng dùng làm thuốc lợi niệu (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10], (Võ Văn Chi, 1997) [2]
Nhận xét: Chi Solanum có đặc điểm hình thái rất phong phú và đa dạng. Các loài thuộc chi Solanum thường mọc ở ven rừng, ven đường, bãi hoang, ruộng hoang, lùm bụi… và phân bố ở khắp mọi nơi từ vùng núi đến trung du và đồng bằng. Trong số các loài mọc phổ biến của chi Solanum, không ít loài vừa có vùng phân bố rộng rãi lại vừa có giá trị thực tiễn (S. erianthum, S. nigrum, S. procumbes, S. torvum, S. violacem), Trong đó, có một số loài mọc hoang ở khắp mọi nơi (S. nigrum, S. torvum, S. violaceum), có loài chỉ phát triển mạnh ở vùng đồng bằng (S. procumbens). Giá trị thực tiễn của các loài trong chi này dùng để làm thuốc (18/28), làm rau ăn (6/28) và làm cảnh (3/28), nhưng chủ yếu vẫn để làm thuốc. Ngoài ra có sự nhầm lẫn khi xác định tên loài, đặc biệt là sự nhầm lẫn giữa mẫu tiêu bản của loài S. capsicoides và loài S. viarum; tiêu bản 2 loài này được xác định cùng một tên (S. xanthocarpum). Các alcaloid đặc trưng có trong các loài của chi Solanum là solasodin, solanin.
7. Kết luận
- Có hai quan điểm chính về hệ thống phân loại họ Cà (Solanaceae)
+ Quan điểm 1: Họ Solanaceae được phân chia thành các tông. Tiêu biểu cho quan điểm phân chia này có một hệ thống phân loại nổi tiếng như: G. Bentham & J. D. Hooker (1864), H. Melchior (1964), V. H. Heywood (1993) [26].. Trong đó hệ thống H. Melchior (1964) là hợp lý hơn cả cho việc sắp xếp các taxon thuộc họ Solanaceae
+ Quan điểm 2:Họ Solanaceae được phân chia thành các phân họ (Subfam.) Quan điểm này chủ yếu gặp ở các hệ thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 & 1996)
So sánh 2 quan điểm cho thấy hệ thống A. L. Takhtajan 1987 có ưu điểm là phân chia thành 2 phân họ rõ ràng, còn hệ thống H. Melchior (1964) chỉ phân chia thành 2 nhóm tông. Ngoài ra, ở hệ thống Takhtajan 1987 họ Cà được phân chia thành tới 12 tông, trong đó có một nửa số tông không thấy có đại diện ở Việt Nam. Nên lựa chọn hệ thống Takhtajan 1987 cho việc phân loại họ Cà ở Việt Nam là không thoả đáng. Còn hệ thống H. Melchior (1964) có số lượng tông vừa phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia của hệ thống này khá dễ dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Do vậy, việc lựa chọn hệ thống H. Melchior (1964) để sắp xếp các taxon trong họ Cà ở Việt Nam là hợp lý hơn cả.
- Chi Solanum L. phân bố rất rộng rãi trên thế giới ở các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới và ôn đới. Trung tâm phân bố của chi này là Châu Mỹ, châu úc và Đông Nam á.
- Đặc điểm thực vật của chi Solanum L. được mô tả theo loài Solanum nigrum. Các loài thuộc chi SolanumL. đa số có số nhiễm sắc thể 2n=24. Hạt phấn của các loài thuộc chi Solanum L., hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường kính 7-28 µm
- Về phân loại chi Solanum L. Hiện nay có 4 cách phân loại hay được trích dẫn nhiều trong các tài liệu khoa học, đó là khoá phân loại của D’Arcy năm (1973) chi Solanum L. được chia làm 4 chi phụ, 20 sestion, 56 loài , G. Bonati (1915-1927) gồm 20 loài 2 thứ, Z. Y. Zang (1994) gồm 41 loài 2 thứ, của Vũ Văn Hợp (2006) 28 loài 5 thứ
- ở Việt Nam theo thống kê mới nhất của Vũ Văn Hợp (2006), chi Solanum L. có 28 loài, trong đó bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam 2 loài mới. Đó là S. nienkui Merr. & Chun và loài S. neogriffithiiV. V. Hop.
- Các loài thuộc chi Solanum ở Việt Nam thường mọc ở ven rừng, ven đường, bãi hoang, ruộng hoang, lùm bụi… và phân bố ở khắp mọi nơi từ vùng núi đến trung du và đồng bằng. Trong số các loài mọc phổ biến của chi Solanum, không ít loài vừa có vùng phân bố rộng rãi lại vừa có giá trị thực tiễn (S. erianthum, S. nigrum, S. procumbes, S. torvum, S. violacem), Trong đó, có một số loài mọc hoang ở khắp mọi nơi (S. nigrum, S. torvum, S. violaceum), có loài chỉ phát triển mạnh ở vùng đồng bằng (S. procumbens). Giá trị thực tiễn của các loài trong chi này dùng để làm thuốc (18/28), làm rau ăn (6/28) và làm cảnh (3/28), nhưng chủ yếu vẫn để làm thuốc.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1 | Đỗ Huy Bích (1995), Thuốc từ cây cỏ và động vật, Nxb Y học, Hà Nội |
2 | Võ Văn Chi (2003 & 2004), Từ điển thực vật thông dụng, 1 & 2, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. |
3 | Phạm Hoàng Hộ (1972), “Solanaceae”, Cây cỏ miền Nam Việt Nam, 2, tr. 210-222, Thành phố Hồ Chí Minh. |
4 | Phạm Hoàng Hộ (1993), “Solanaceae: họ Cà”, Cây cỏ Việt Nam, 2, tr. 950-969, Montreal |
5 | Phạm Hoàng Hộ (1999), “Solanaceae: họ Cà”, Cây cỏ Việt Nam, 2, tr. 755-770, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. |
6 | Vũ Văn Hợp (2006), Nghiên cứu phân loại họ Cà (Solanaceae Juss.) ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ sinh học, tr. 44-86 |
7 | Vũ Văn Hợp, Nguyễn Thị Nhan (2005), “Solanaceae Juss. 1789-Họ Cà”, Danh lục các loài thực vật Việt Nam, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, 3, tr. 27, |
8 | Nguyễn Minh Khai và cộng sự (2001), “Nghiên cứu điều chế thuốc Haina điều trị viêm gan B mạn hoạt động từ Cà gai leo”, Tạp chí Dược liệu, 6, tr. 68-71. |
9 | Lê Khả Kế và cộng sự (1974), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. |
10 | Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật |
11 | Trần Văn Thanh, Phương Thiện Thương (2001), “Nghiên cứu thành phần hoá học của cây Cà vú (Solanum mammosum L.)”, Tạp chí Dược học, 8, tr. 10-12 |
12 | Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín (Magnoliophyta, Angiospermae) ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. |
Tiếng Anh
13 | Amalia Barone, Angela Sebastiano, and Domenico Carputo (1999), “Chromosome pairing in Solanum commersonii–S. tuberosum sexual hybrids detected by commersonii-specific RAPDs and cytological analysis”, Genome, 42, 218–224. |
14 | Blomqvist M. M. & N. T. Ban (1999), “Solanum L.”, Plant Resources of South-East Asia, 12(1), pp. 453-460. |
15 | D’Arcy W.G. (1972), “Solanaceae studies II: typification of subdivisions of Solanum”, Annals of the Missouri Botanic Garden 59: 262–78. |
(1979), “The classification of the Solanaceae. J. G. Hawkes, R. N. Lester, and A. D. Skelding (eds.), The biology and taxonomy of the Solanaceae”. Academic Press, London. Pages 3-47 | |
(1991), “The Solanaceae since 1976, with a review of its biogeography. Pages 75-137 in: J. G. Hawkes, R. N. Lester, M. Nee, and N. Estrada (eds.), Solanaceae III: taxonomy, chemistry, evolution”. Royal Botanic Gardens, Kew, U.K. Pages 75-137 | |
19 | D’Arcy W.G. & Rakotozafy A. (1994), Family 176 – Solanaceae, Flore de Madagascar et des Comores, Museum National d’Histoire Naturelle: Paris. |
20 | D’Arcy W.G. (1974), Solanum and its close relatives in Florida, Annals of the Missouri Botanic Garden, 61: 819–67. |
(1972), “Solanaceae studies II: typification of subdivisions of Solanum”, Ann. Missouri Bot. Gard., 59, 262-278 | |
22 | D’rcy W. G. (1974), “Solanum and It Close Realatives in Florida”, Annals of the Missouri Botanical Garden, Vol. 61, N0. 3, pp. 819-867 |
23 | |
24 | Flora of Taiwan (1983), Solanaceae, second edision, vol. 2, 549 |
25 | Gordian C. Obute, Benjamin C. Ndukwu and Okoli B.E. (2006), African Journal of Biotechnology Vol. 5 (9), pp. 689-692 |
26 | Heywood V. H . (1993), Flowering Plants of the World, BT Batsford Ltd, London |
27 | Kurz S. (1877), “Solanaceae”, Forest Flora of British Burma, 2, pp. 222-227, Calcutta. |
28 | Phillipson. P.B., Schatz G.E., Lowry P.P. (2007), “A Catalogue of the Vascular Plants of Madagascar”, Muséum National d'Histoire Naturelle, 1: 184-188 |
29 | Swaminatha M. S. (1953), Nature of polyploidy in some 48-chromosome species of the genus Solanum, Section TUBERARIUM, School of Agrkulture, University of Cambridge, England |
30 | Takhtajan A. L. (1996), Diversity and classification of flowering plants, Columbia University Press, New York. |
31 | Yamagata H. Kowyama Y. and Syakudo K. (1969), “Radiosensitivity and polyploidy in some nontuber bearing Solanum species”, Radiation Botany, 1969, Vol. 9, pp. 509-521. |
32 | Zang Z. Y. et al. (1994), “ Solanaceae”, Flora of China, 17, pp. 300-332, Science Press, Beijing. |
33 | Zhang T. L. (1998), “Solanaceae”, Flora of China Illustration, vol.17: 364–403, Science Press, Beijing. |
Tiếng Pháp
34 | Bonati G. (1915-1927), “Solanaceae”, Flora Générale de l’Indochine, 4, pp. 313-341, Paris |
Tiếng Đức
35 | Backer C. M. & R. C. Bakhuizen van den Brink Jr. (1965), “Solanaceae”, Flora of Java, 2, pp. 464-483, Groningen |
36 | Bohs L. (2001), “A revision of Solanum section Cyphomandropsis (Solanaceae)”, Systematic Botany Monographs 61: pp1-85. |
37 | D'Arcy W. G., Robert E., Woodson Jr., Robert W. Schery (1973), Flora of Panama. Part IX. Family 170. Solanaceae, Annals of the Missouri Botanical Garden, Vol. 60, No. 3. pp. 573-780. |
38 | Kuang K. Z. & Lu A. M. (1978), “Solanaceae”, Flora Republicae Popularis Sinicae, 67(1), pp. 1-175, Pekin |
39 | Melchior H. (1964), “Solanaceae”, A. Engler’s Syllabus der Pflanzenfamilien, 2, pp. 444-447, Berlin. |
40 | Thomas Mione, Gregory J. Anderson (1992), “Pollen-ovule ratios and breeding system evolution in Solanum Section Basarthrum (Solanaceae)”, American Journal of Botany, Vol. 79, N0 3, pp. 279-287 |
41 | Zang Z. Y. et al. (1994), “Solanaceae”, Flora of China vol. 17: 314–325, Science Press, Beijing. |
Tiếng Latinh
42 | Bentham G. & J. D. Hooker (1864), “Solanaceae” Genera Plantarum, 1(3), pp. 882-888, London. |
43 | Brown R. (1810), “Solaneae Juss.”, Florae Novae Hollandiae et Insulae Van-Diemen, 1, pp. 443-449, Londini. |
44 | Jussieu A. (1798), Genera Plantarum, 24, Paris. |
45 | Kunth C. S. (1818), “Solaneae Juss.”, Nova Genera et Species Plantarum, 3, pp. 1-373, Paris. |
46 | Loureiro J ed. 2 by C. L. Willdenow (1793), Flora Cochinchinesis, Berolini |
47 | Loureiro J. ed. 2 by C. L. Willdenow (1793), Flora Cochinchinensis, Berolini |
Tiếng Nga
48 | Nhan N. T. (1996), “Solanaceae Juss.”, Конспекм сосубисмых расмений флоры Въемнма, 2, pp. 196-204, Санкт-Летербург “Мир и Семъя-95 |
49 | Тахтаджян А. (1981), Жизнъ расмений, 5(2), pp. 414-420, Москва. |
50 | Тахтаджян А. (1987), “Solanales”, Сисмема магнолиофимов, pp. 238-240, Ленинград. |
PHỤ LỤC
Phụ lục 2.1: Số lượng nhiễm sắc thể của các taxon thuộc chi Solanum L.
STT | Taxon | SL nhiễm sắc thể n= | Tài liệu |
1 | S. mammosum L. | 11-12 | 4 |
2 | S. aethiopicum L. | 12 | 1 |
3 | S. americanum Mill. var. baylisii D'Arcy | 12 | 4 |
4 | S. bahamense L. | 12 | 4 |
5 | S. bahamense L. var. luxurians D'Arcy | 12 | 4 |
6 | S. carolinense L. | 12 | |
7 | S. carolinense L. var. florida- num Chapm. | 12 | 4 |
8 | S. climidiatum Raf. | 12 | 4 |
9 | S. cornutum auct. non Lam | 12 | 5 |
10 | S. diphyllum L. | 12 | 4 |
11 | S. donianum Walp. | 12 | 4 |
12 | S. dtrullifolium | 12 | 5 |
13 | S. elaeagni- folium Cav. | 12 | 4 |
14 | S. erianthum D. Don* | 12 | 4 |
15 | S. glauco-phyllum Desf. | 12 | 4 |
16 | S. indicum L. | 12 | 1 |
17 | S. jamaicense Mill. | 12 | 4 |
18 | S. jasminoides Paxt. | 12 | 4 |
19 | S. maul.itianum Scop. | 12 | 4 |
20 | S. melongena L. | 12 | 1,4 |
21 | S. nigrcscens Mart. & Gal. | 12 | 4 |
22 | S. nodiflorum | 12 | 5 |
23 | S. pseudo- capsicum L. | 12 | 4 |
24 | S. racemosum Jaccl. | 12 | 4 |
25 | S. rostratum | 12 | 5 |
26 | S. rostratum Dun. | 12 | 4 |
27 | S. seaforthianum Andr. | 12 | 4 |
28 | S. sisymbri-ifolium Lam. | 12 | 4 |
29 | S. tomum Sw. | 12 | 4 |
30 | S. torvum | 12 | 1 |
31 | S. tridynamum Dun. | 12 | 4 |
32 | S. tubcrosum L. | 12 | 4 |
33 | S. wendlandii Hook. f. | 12 | 4 |
34 | S. acaule | 24 | 2 |
35 | S. carolinense | 24 | 5 |
36 | S. latum | 24 | 5 |
37 | S. longipedicellatum | 24 | 2 |
38 | S. luteum | 24 | 5 |
39 | S. memphiticum | 24 | 5 |
40 | S. miniature | 24 | 5 |
41 | S. nigrum | 24 | 5 |
42 | S. ottonis | 24 | 5 |
43 | S. simplicifolium | 24 | |
44 | S. uillosum Lam. | 24 | 4 |
45 | S. villosum | 24 | 5 |
46 | S. commersonii | 30 | 3 |
47 | S. dewissum | 30 | 2 |
49 | S. tuberosum | 30 | 2,3 |
50 | S. nigrum L. | 36 | 4 |
51 | S. indicum | 2n=69 | 1 |
Phụ lục 4.1: Phân loại theo quan điểm của D’Arcy [102], [105], [106], [107], [108], [109], [110]
Theo D’Arcy chi Solanum L. có 4 chi phụ, 20 sestion, 56 loài. Sự phân loại đó được tóm tắt ở bảng 4.1
Bảng 4.1: Phân loại chi SolanumL. theo quan điểm của D’Arcy
Subgenus | Section | Loài |
Leptostemonum | Aculeigerum | S. wendlandii Hook. f. |
Eriophylla | S. jamaicense Mill. | |
Micracantha | Micracantha | S. lancaeifolium Jacq. |
S. siparunoides Ewan | ||
Lasiocarpa | S. accrescens Standl. & Mort. | |
S. erythrotrichum Fern. | ||
S. flavescens Dun. | ||
S. hirtum Vahl | ||
S. pectinatum Dun. in DC. | ||
S. quitoởnse Lam. | ||
Melongena | S. fosbergianum D’Arcy. | |
S. hartwegii Benth. | ||
S. hayesii Fern. | ||
S. hispidum Pers. | ||
S. melonga L. | ||
S. ochraceo-ferrugineum (Dun.) Fern. | ||
S. subinerme Jacq. | ||
S. torvum Sw. | ||
Acanthophora | S. acerosum Sendt. in Mart. | |
S. mammosum L. | ||
Brevantherum | Pseudo-capsica | S. pseudocapsicum L. |
Lepidota | S. argenteum Dun. ex Poir. in Lam. | |
Brevantherum | S. asperum L.-Cl. Rich. | |
S. erianthum D. Don | ||
S. hazenii Britt. | ||
S. rugosum Dun. in DC. | ||
S. umbellatum Mill. | ||
Extensum | S. cordavense Sessé & Moc. | |
S. extensum Bitt. | ||
S. perattenuatum I. M. Johnst. | ||
S. schlechtendalianum Walp. | ||
Holophylla | S. ipomoea Sendt. in Mart. | |
S. microleprodes Bitt. | ||
S. microleprodes Bitt. var. microleprodes. | ||
S. microleprodes Bitt. var. felicis D’Arcy. | ||
S. storkii Mort. & Standl. | ||
Bassovia | Herpystichum | S. phaseoloides Polak. |
Pteroidea | S. anceps R. & P. | |
S. trizygum Bitt. | ||
Solanum | Solanum | S. americanum Mill. |
S. macrotonum Bitt. | ||
S. nigrescens Mart. & Gal. | ||
Leiodendra | S. antillarum O. E. Schulz in Urb. | |
S. arboreum H. & B. ex Dun. | ||
S. coibae Riley | ||
S. eshbaughianum D’Arcy | ||
S. incomptum Bitt. | ||
S. intermedium Sendt. in Mart. | ||
S. nudum H. & B. ex Dun. | ||
S. rovirosanum Donn. Sm. | ||
Potatoe | Petota | S. oxycarpum Schiede in Schlecht. |
S. tuberosum L. | ||
S. woodsonii Corr. | ||
Basarthrum | S. canense Rydb. | |
S. caripense H. & B. ex Dun. | ||
Anarrhichomemum | S. evolvulifolium Greenm. | |
Jasminosolanum | S. saeforthianum Andr | |
Unnamed | S. granelianum D’Arcy. |
4.2 Khoá phân loại chi SolanumL. theo Flora of Panama [102]
a. Cây thường có nhiều gai; phần lớn cây phân cành hoặc có lông che chở đa bào hình sao, nếu không có lông hoặc có lông che chở đơn bào thì sau đó cây có nhiều gai.
b. Bao phấn thon nhọn, đỉnh nhỏ hơn thân, gốc bao phấn nhỏ; thân hoặc các phần khác của cây thường có nhiều gai; lá thường chia thuỳ (subgenus Leptostemomum)
c. Cây dây leo, cây thân bò có nhiều gai ngược trên thân và lá.
d. Tràng hoa xẻ thuỳ nông, cây không có lông hoặc gần như vậy … A. sect. Aculeigerum
dd. Tràng hoa xẻ thuỳ sâu, cây có lông hình sao
e. Lá có cuống … C. sect. Micracantha
ee. Lá không có cuống … B. sect. Eriophylla
cc. Cây bụi, cây gỗ hoặc cây thảo (gai cứng cáp uốn cong ngược lại chỉ có ở sect. Eriophylla
f. Quả có lông tơ, ít nhất gần đến khi quả chín … D. sect. Lasiocarpa
ff. Quả không có lông trước khi đạt đến kích thước 1/2 của quả lúc chín.
g. Phần lớn cây có lông che chở đa bào hình sao; phần lớn cây gỗ hoặc cây bụi
h. Lá có cuống … E. sect. Melongena
hh. Lá không có cuống … B. sect. Eriophylla
gg. Phần lớn cây có lông che chở đơn bào, đặc biệt ở thân cây; cây thân thảo … F. sect. Acanthophora
bb. Bao phấn không thon nhọn, đỉnh không nhỏ hơn nhiều so với gốc, lỗ nứt tương đối rộng; không có nhiều gai (chú ý thân của cây); lá gần như nguyên hoàn toàn (subgenus Brevantherum)
h. Cuống lá vượt trội so với lá.
i. Cành non và lá có nhiều lông che chở đa bào hình sao (tất cả các gai bán kính gặp nhau ở một điểm); các loài mọc tự nhiên … J. sect. Extensum
ii. Cành non và lá có nhiều lông che chở đơn bào hoặc lông mọc phân nhánh; các loài trồng … G. sect. Pseudo-capsica
hh. Cuống lá không dài hơn so với cuống hoa (quả)
j. Lông che chở đa bào hình sao
k. Cụm hoa có lá non đối xứng, phần lớn ngắn hơn 5cm; mặt dưới lá lông mầu trắng … J. sect. Extensum
kk. Cụm hoa có lá già đối xứng, phần lớn dài hơn 5cm; mặt dưới lá lông không trắng … I. sect. Brevantherum
jj. Lông che chở phân nhánh hoặc hình vẩy và bề mặt lá mượt
l. Lông che chở phân nhánh; mặt trên và dưới lá không tương phản … K. sect. Holophylla
ll. Lông che chở hình vẩy; mặt trên và dưới lá tương phản … H. sect. Lepidota
aa. Cây thân không nhẵn; cây có lông che chở đơn bào, vài loài có lông che chở đa bào hình sao hoặc lông phân nhánh
m. Quả hình ovan và hình nón dài; cuống lá uốn cong; cây thảo hoặc cây leo (subgenus Bassovia)
n. Lá và cụm hoa gắn vào đối diện với rễ phụ sinh, cây mọc bò; lá có 3 lá chét … L. sect. Herpystichum
nn. Cụm hoa mọc ở nách lá hoặc ở nơi rẽ đôi của thân; cây thảo thân thẳng đứng; lá đơn hoặc hình lông chim, hiếm khi có 3 lá chét … M. sect.Pteroidea
mm. Quả hình cầu, elíp hoặc ovan ngắn; cuống lá không uốn cong; sống đa dạng.
o. Cây thân bò; lá có cuống lá ngắn, lá xếp thành 2 dãy; cụm hoa có vài hoa; hoa mầu hồng nhạt … R. sect. Anarrhichomemum
oo. Cây không giống như trên
p. Cây thảo thân thẳng đứng, cây bụi hoặc gỗ, cụm hoa dày đặc, nếu cụm hoa hình chuỳ hoặc chùm hoa nở thì sau đó sẽ để lại sẹo lá
q. Hoa đơn độc hoặc không hơn 3 hoa ở một mấu cuống hoa … G. sect. Pseudo-capsica
qq. Những hoa ở cụm hoa có cuống phần lớn hơn 3 hoa (subgenus Solanum)
r. Cây thảo, cụm hoa ở nách lá, sẹo lá không nổi bật; ít nhất một phần quả mầu đen tím … N. sect. Solanum
rr. Cây bụi hoặc cây gỗ; cụm hoa mọc đối diện với lá, sẹo lá dễ thấy; mầu quả đa dạng … O. sect. Leiodendra
pp. Cây bụi leo hoặc cây thảo, thỉnh thoảng dây leo; cụm hoa mở; sẹo lá thường không rõ (subgenus Potatoe)
s. Cuống lá nhỏ có đốt gần giữa; cây có rễ củ; cây thảo có mùi thơm … S. sect. Petota
ss. Cuống lá nhỏ có đốt gần thân; không có rễ củ; không có mùi thơm
t. Lá đơn và nguyên hoàn toàn
u. Cây thân bò; lá ngắn hơn 3,5cm; cụm hoa có từ vài đến nhiều hoa … R. sect. Anarrhichomemum
uu. Cây gỗ bò kích thước lớn; lá dài hơn 3,5cm; cụm hoa có nhiều hoa … T. sect. Unnamed
tt. ít nhất có vài lá kép hoặc chia thuỳ
v. Đài cụt hoặc gần như cụt, không xẻ ở giữa thuỳ
w. Trục cụm hoa mảnh khảnh; bao phấn ngắn và chắc; tràng hoa không có lông ở bên ngoài … S. sect.Jasminosolanum
ww. Trục cụm hoa chắc; bao phấn dài và mảnh khảnh; tràng hoa có lông dầy đặc ở bên ngoài … T. sect. Unnamed
vv. Đài có thuỳ rõ ràng, xẻ giữa … Q. sect. Basarthrum
PHỤ LỤC
Phụ lục 4.2: Khoá phân loại chi Solanum L. theo (Flora of China 1994) [101], [111]
1a. Cây có lông che chở hình sao; thường có gai.
2a. Cây thân nhẵn; mép lá nguyên; bao phấn bền, không nhọn; cụm hoa nhiều hoa, chuỳ hoa phẳng hoặc tròn thẳng đứng trên lá trong hoa và quả… 2. S. erianthum
2b. Cây thân không nhẵn; mép lá xẻ răng cưa hoặc có thuỳ; Bao phấn nhọn ở bên ngoài; cụm hoa ít phân nhánh hoặc một nhánh, hiếm khi mọc từ cành, mọc dưới lá hoặc dọc theo thân.
3a. Đài hoa mở rộng, bao bọc sát phần lớn của quả mọng.
4a. Tràng hoa mầu vàng; bao phấn dài hơn 1cm, không bằng nhau; quả mọng được bao bọc hoàn toàn bởi đài kể cả lúc chín; đài của quả dày đặc gai dài 1-2 cm………….. 38. S. angustifolium
4b. Tràng hoa mầu trắng, xanh hoặc hơi tía, bao phấn ngắn hơn 1cm, bằng nhau, quả mọng được đài bao bọc một phần hoặc hoàn toàn khi chín, đài ở quả phủ nhiều hoặc ít gai ngắn hơn 1cm.
5a. Lá thường hình lông chim, chia thuỳ hình lông chim hay răng cưa; thân có lông đơn bào, nhiều lông tiết và lông che chở đa bào hình sao …… 37. S. sisymbriifolium.
5b. Lá nguyên hoặc xẻ răng cưa không đều; thân chỉ có lông che chở đa bào hình sao.
6a. Cụm hoa ngắn hơn 5 cm, cuống hoa ngắn hơn 5mm; tràng hoa mầu trắng ….. 36. S. griffithii
6b. Cụm hoa dài hơn 5 cm, cuống hoa dài hơn 5mm; tràng hoa mầu xanh hoặc tím….. 35. S. barbisetum
3b. Đài cứng hoặc không mở rộng, không bao lấy quả mọng.
7a. Quả được bao bọc dày đặc lông che chở đa bào hình sao với lớp lông bền không rụng; cây bao phủ lớp lông mịn; thuỳ đài gần giống lá, dài hơn 8mm …. S. lasiocarpum
7b. Quả nhẵn; cây có nhiều lông tơ; thuỳ đài không giống lá, phần lớn ngắn hơn 7 mm
8a. Tràng hoa rộng hơn 5 cm, mầu tím đậm, phớt trắng, có mầu tương phản ở nếp gấp; cây gỗ cao đến 12 m; quả dài hơn 3cm… 26. S. wrightii
8b. Tràng hoa hẹp hơn 5 cm, trắng hoặc tím, không phớt rõ ràng, không có sự tương phản mầu ở nếp gấp; cây bụi, hoặc nếu cây nhỏ thì thân cây mảnh khảnh; quả ngắn hơn 3cm.
9a. Cụm hoa phần lớn 1-3 nhánh; cây phần lớn dài hơn 1m.
10a. Lá có 3-5 thuỳ, trên bề mặt phủ lớp lông thưa và mềm ở cả hai mặt lá, khi khô có một mầu ở hai mặt, toàn bộ cây có nhiều lông cứng với cuống có mầu gỉ sắt, cuống ngắn hoặc dài, nhiều lông cứng lởm chởm hình sao …. 20. S. chrysotrichum
10b. Mép lá gần nguyên hoặc thuỳ biến đổi, lá không có cuống, bề mặt xù xì với nhiều lông hình sao, lá khô có mầu khác, thân và lá không có lông cứng, cuống dài và có lông che chở cứng.
11a. Tràng hoa mầu trắng; cuống nhỏ có lông giống tuyến tiết lẫn lộn với lông che chở hình sao; quả mầu vàng, đường kính dài hơn 1cm … 25. S. torvum
11b. Tràng hoa mầu xanh, tím; cuống nhỏ, chỉ có lông che chở hình sao; quả mầu đỏ, đường kính ngắn hơn 1cm.
12a. Lá gần nguyên hoặc 6-7 thuỳ lượn sóng, lá hình elip hoặc ovan; tràng hoa dài hơn 8mm … 22. S. macaonense
12b. Lá nguyên hoàn toàn, lá thuôn hẹp hình mác; tràng hoa ngắn hơn 8mm …. 21. S. luzoniense
9b. Cụm hoa không phân nhánh; cây thấp hơn 1m.
13a. Chiều ngang quả rộng hơn 1,4cm; hoa phần lớn lưỡng tính cùng gốc.
14a. Quả mầu đỏ, thường có nếp nhăn theo chiều dọc; tràng hoa mầu trắng hoặc tím nhạt … S. aethiopicum
14b. Quả phần lớn mầu vàng hoặc đen, không có mầu đỏ, không có nếp nhăn; tràng hoa mầu xanh hoặc tím.
15a. Chiều ngang quả phần lớn rộng hơn 4cm, hình dạng biến đổi, hiếm khi hình cầu, mầu xanh, trắng, đen, hồng hoặc nâu, chỉ mầu vàng khi quả chín … 40. S. melongena
15b. Chiều ngang quả phần lớn hẹp hơn 4cm, hình cầu, mầu xanh hoặc vàng … 39. S. undatum
13b. Chiều ngang quả hẹp hơn 1,4 cm; hoa thường lưỡng tính.
16a. Lá có lông rụng sớm, thuỳ lá xẻ lông chim sâu; thân có nhiều gai thẳng, vàng sáng, rậm, thường dài hơn 7mm; quả mầu vàng … 41. S. virginianum
16b. Lá có lớp lông bền, mép nguyên, xẻ răng cưa, hoặc xẻ thuỳ nông; thân nhẵn hoặc có gai cong ngược lại ngắn hơn 5mm; bao phấn ngắn hơn 7mm; quả mầu đỏ hoặc vàng cam.
17a. Lá nguyên; thân nhẵn hoặc gần nhẵn; cụm hoa hình thon dài … 23. S. nienkui
17b. ít nhất vài lá chia thuỳ hoặc thuỳ lượn sóng; thân nhẵn hoặc gần nhẵn; cụm hoa co đặc lại.
18a. Phần lớn lá ngắn hơn 4 cm, thuỳ lá lượn sóng; cuống lá ngắn hơn 1,5cm; cụm hoa ở đầu cành trên chồi lá …24. S. procumbens
18b. Phần lớn lá dài hơn 5cm, thuỳ lá thường lồi; cuống lá phần lớn dài hơn 1,5cm; cụm hoa phần lớn mọc ở nách lá.
19a. Hoa thường mầu tím; được bao phủ lớp lông mịn; cuống quả thường mọc thẳng đứng, dài hơn 1cm … S. violaceum
19b. Hoa thường mầu trắng; cây ít nhiều được bao phủ lớp lông mịn, gai ngắn hơn 1cm … 28. S. deflexicarpum
1b. Cây không nhẵn hoặc có lông che chở đơn bào chiếm ưu thế hoặc hiếm khi có lông che chở đa bào hình tế bào thần kinh, thường không có lông che chở hình sao, nếu có trên lá thường lẫn lộn với lông che chở đơn bào; cây thường không có gai.
20a. Bao phấn dạng mác, đỉnh bao phấn thon nhọn mảnh khảnh, cây có lông che chở đơn bào thẳng, cành có gai hình kim.
21a. Quả mầu đỏ cam; hạt mầu vàng, dẹt dạng đĩa, có cánh hình cầu nổi bật, đường kính dài 4-6mm (bao gồm cả cánh) … 32. S. capsicoides
21b. Quả mầu vàng sáng; hạt mầu nâu, hình hạt đậu, không có cánh, đường kính ngắn 4cm.
22a. Thân cây bao phủ lớp lông nhung gồm lông che chở đơn bào và lông che chở đa bào hình sao, có lông tiết; vỏ quả dày hơn 1cm.
23a. Thân có nhiều lông dài 2mm; thuỳ lá sắc nhọn; bầu không có lông; tràng hoa mầu tím … 33. S. mammosum
23b. Thân dày đặc lông tơ ngắn hơn 1mm; thuỳ lá tù; bầu và quả non có lông tơ; tràng hoa mầu trắng hoặc xanh … 31. S. viarum
22b. Cây có nhiều lông che chở đơn bào; phần lớn có lông tiết đa bào, chỉ có vài lá có lông che chở đa bào hình sao; vỏ quả mỏng hơn 1cm … 30. S. aculeatissimum
20b. Bao phấn thuôn hoặc hình trứng, không có đỉnh nhọn; cây không có lông hoặc có lông che chở đơn bào, cành không lông.
24a. Lá kép lông chim, ít nhất một phần lá.
25a. Lá kép hình lông chim không đều, thường có lá chét ở trong, lông tơ nhầy nhớt; cuống nhỏ có đốt ở giữa trên; tán lá khi vò nát có mùi hắc; đài hoa chia ra gần nửa; rễ phình to thành củ ở dưới đất …19. S. tuberosum
25b. Lá có một hoặc hai đôi lá chét, phần lớn không có tuyến tiết, thỉnh thoảng có tuyến tiết; cuống nhỏ có đốt hoặc không có đốt hoàn toàn, tán lá có mùi hắc; thuỳ đài ngắn hoặc không có; rễ không phình thành củ ở dưới đất.
26a. Cây không có lông; lá thường chia 5-9 phần; đài gần cụt; bao phấn tự do … 17. S. seaforthianum
26b. Cây có lông; lá nguyên hoàn toàn hoặc chia 3-5 phần; đài phân thuỳ ngắn riêng biệt; bao phấn hợp sinh … 11. S. dulcamara
24b. Lá nguyên hoàn toàn hoặc chia phần đa dạng, nhưng không có lá kép.
27a. Cây bụi; phiến lá rộng, thuỳ lá thường ăn sâu vào gần gân giữa, thuỳ hẹp; thuỳ tràng hoa khía vết hình chữ V ở đỉnh; quả có mấu, mầu vàng cam, hình bầu dục … 1. S. laciniatum
27b. Cây thảo hoặc cây leo, nếu cây bụi thì sau đó lá không chia thuỳ hoặc thuỳ rộng; thuỳ tràng hoa nguyên hoàn toàn; quả biến đổi.
28a. Hoa đơn độc hoặc cụm hoa có hai hoa, hoặc không phân nhánh; chùm hoa thường hình tán (phân nhánh ở loài S. merrillianum); phần lớn cây bụi hoặc cây thảo.
29a. Cây bụi, lá mọc trên thân gỗ, nguyên hoàn toàn, phần lớn các đôi lá không đều nhau; chỉ nhị và vòi nhuỵ không có lông.
30a. Cuống và cành ngắn hoặc teo đi, 1(-3) hoa; cành có lông; quả mầu đỏ cam sáng … 10. S. pseudocapsicum
30b. Cuống và cành rõ rệt, cành dài, nở nhiều hoa; có lông che chở đơn bào; quả mầu xanh xám, vàng hoặc mầu cam nhạt.
31a. Quả mọng đường kính ngắn hơn 1cm; tràng hoa ngắn hơn 1cm; bao phấn ngắn hơn 2,5cm; cuống ngắn hơn 1 cm; lá không có lông, lá khi non tròn ở đỉnh … 3. S. diphyllum
31b. Quả mọng đường kính dài hơn 1,1 cm; tràng hoa dài hơn 1cm; bao phấn dài hơn 1,5cm; cuống dài hơn 1cm; lá có chùm lông ở nách lá của trục gân giữa, lá non nhọn ở đỉnh … 4. S. spirale
29b. Cây thảo hoặc cây leo thân gỗ; lá mọc trên cành non thân thảo, mép lá xẻ răng cưa hoặc lượn sóng, các lá kích thước đều nhau; vòi nhuỵ và chỉ nhị có lông.
32a. Cây thảo; cuống hoa không phân nhánh; chiều dài bao phấn thay đổi … 6. S. merrillianum
33a. Quả mầu vàng, mầu cam, hơi đỏ, quả hình bầu dục; cây có lông tơ … 9. S. villosum
33b. Quả mầu đen hoặc hiếm khi mầu xanh, hình cầu; cây không có lông hoặc có lông tơ.
34a. Bao phấn ngắn hơn 1,5mm …… ; đường kính quả ngắn hơn 8mm, mầu sáng bóng; tràng ngắn hơn 5mm … 5. S. americanum
34b. Bao phấn dài hơn 2mm; …. phần lớn quả đương kính dài hơn 8mm; mầu vàng bóng hoặc mờ; tràng hoa dài hơn 5mm
35a. Đài quả gắn vào quả mọng; quả mọng mầu đen mờ; cây nhiều lông dựng đứng và trải đều; lá xẻ răng cưa hoặc không nguyên hoàn toàn, hình ovan… 7. S. nigrum
35b. Đài quả rời khi quả chín; quả mọng mầu sáng bóng, đen hoăc tím; cây có lông nhưng khó thấy; lá phần lớn không nguyên hoàn toàn, hình ovan, hình thoi hoặc hình tròn … 8. S. scabrum
28b. Cụm hoa hình chuỳ, phần lớn nhiều hoa, cuống hoa phân nhánh; thường dạng cây leo.
36a. Vòi nhuỵ có lông; chỉ nhị có mao ở bên; quả mầu đen; mép lá lượn sóng, xẻ răng cưa, hoặc nguyên, không chia thuỳ … 6. S. merrillianum
36b. Vòi nhuỵ và chỉ nhị không có lông; quả mầu đỏ, mầu cam hoặc vàng; lá nguyên hoàn toàn hoặc chia thuỳ.
37a. Lá hình lông chim chia 5-9 phần
38a. Cây có lông tơ; đài cụt với thuỳ nhỏ; tràng hoa mầu tím hoặc trắng; quả dài 1-2cm … 17. S. seaforthianum
38b. Cây có lông tơ; đài có thuỳ rõ rệt, hình denta; tràng hoa mầu xanh tím (hơi lục); quả ngắn hơn 1cm … 18. S. septemlobum
37b. Lá nguyên hoàn toàn hoặc 1(-3) đôi thuỳ.
39a. Thân và cụm hoa có lông tơ dựng đứng, nhiều lông đa bào dài hơn 2mm … 15. S. lyratum
39b. Thân và cụm hoa không có lông hoặc lông ngắn hơn 2mm.
40a. Bao phấn hợp sinh; lá hình tim hoặc cụt.
41a. Cây thảo; lá phần lớn 1 hoặc 2 đôi thuỳ; hạt ngắn hơn 2,5mm; thuỳ đài hình denta … 11. S. dulcamara
41b. Cây nửa bụi; lá nguyên hoàn toàn; hạt dài hơn 2,5mm; đài cụt, thuỳ nhỏ, nhọn … 14. S. kitagawae
40b. Bao phấn tự do; lá hình tròn hoặc hình nêm.
42a. Lá gợn sóng hình denta hoặc xẻ thuỳ; lông che chở đa bào dài … 13. S. japonense
42b. Lá nguyên hoàn toàn, thường không có lông.
43a. Lá có lông tơ; bao phấn ngắn hơn 2mm; phần lớn quả đường kính ngắn hơn 8mm; đường kính hạt ngắn hơn 2mm … 12. S. hidetaroi
43b. Lá không lông; bao phấn dài hơn 2mm; phần lớn đường kính quả dài hơn 8mm, đường kính hạt dài hơn 2mm … 16. S. pittosporifolium
No comments:
Post a Comment