Showing posts with label Arecaceae. Show all posts
Showing posts with label Arecaceae. Show all posts

Saturday, 8 November 2014

HÈO-Rhapis excelsa

HÈO


Tên khác: Hèo cảnh.
Tên khoa học: Rhapis excelsa (Thunb.) Henry; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Tên đồng nghĩa: Chamaerops excelsa Thunberg in Murray, Syst. Veg., ed. 14, 984. 1784; Rhapis aspera W. H. Baxter; R. cordata W. H. Baxter; R. divaricata Gagnepain; R. flabelliformis L’Héritier; R. kwamwonzick Siebold ex Rodigas; R. major Blume; Trachycarpus excelsus (Thunberg) H. Wendland.
Mô tả: Cây mọc thành bụi, có nhiều thân mảnh, đường kính khoảng 3cm, phủ sợi nâu rồi đen đen, mang nhiều lá dạng quạt, chẻ thành 5-10 thuỳ dài 15-25cm, rộng 3-5 cm, cụt đầu và xẻ tách ra, cong về phía gốc, cuống lá cứng, gân hình trụ, dài khoảng 40cm, hơi có răng. Cụm hoa ở giữa đám lá và ngắn hơn cuống lá, phân nhánh, nhẵn. Quả hình tròn, nhọn chóp, đường kính 0,8-1cm, mang một hạt hình cầu, nhẵn. Cây ra hoa vào tháng 5.
Bộ phận dùng: Rễ, bẹ lá (Radix et Petiolum Rhapis).
Phân bố sinh thái:Cây nhập trồng làm cảnh xung quanh các biệt thự hay trong vườn ở các thành phố.
Công dụng, cách dùng:Ở Trung Quốc, rễ Hèo dùng trị lao thương (thương tổn bên trong hay do làm việc quá sức). Sợi của bẹ lá trị chảy máu, khạc ra máu, sản hậu băng huyết. Nhân dân ta cũng sử dụng rễ của loài cây này cũng như rễ cây Hèo Lào (Rhapis laosensis Becc.) để chữa kiết lỵ.

Thursday, 23 October 2014

ĐÙNG ĐÌNH-Caryota mitis-cây thuốc nam-công dụng cách dùng

ĐÙNG ĐÌNH


Tên khoa học: Caryota mitis Lour.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cột nhiều do cây đâm chồi từ gốc, 2-10m, dày 15cm. Lá dài 1,5-3m, bẹ lá có nhiều sợi; cuống chung to, có rãnh, cuống phụ hình dải có một lớp đệm mọc ở gốc, dài 60-80cm, với các đoạn lá dài, hình trái xoan, thuôn, dài 15-20cm, cụt nghiêng. Cụm hoa bông mo dài 30-40cm, có nhiều nhánh, rất dày hoa, dài 25cm; mo 4-6, dạng bao. Quả hình cầu, đường kính 14-15mm, nhẵn, đen có đốm, mang đầu nhuỵ dạng đĩa. Hạt đơn độc, hình trứng, dài 8-10mm. Cây ra hoa tháng 3-4 và tháng 11-12.
Bộ phận dùng: Sợi mềm của bẹ lá (Petiolus Caryotae).
Phân bố: cây mọc phổ biến khắp nước ta, trong các thung lũng đá vôi, ở chân núi, ven đường đi trong rừng ẩm, dưới tán cây gỗ. Cũng thường được trồng. Còn phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ.
Công dụng: Lá dùng để trang trí, Chồi ngọn có thể dùng làm rau ăn, và từ thân, người ta có thể lấy bột cọ. Khối sợi mềm ở nách các lá tạo thành một loại bùi nhùi được sử dụng làm lành một số vết thương bằng cách đắp bên ngoài.
Ghi chú: Còn có cây Đùng đình cánh dính (Caryota sympetala Gagnep.) ở các tỉnh miền Trung có lõi thân mềm cũng ăn được và góp phần chống đói khi giáp hạt.

Wednesday, 22 October 2014

DỪA NƯỚC-Nypa fruticans-cây thuốc nam

DỪA NƯỚC


Tên khác: Dừa lá.
Tên khoa học: Nypa fruticans Wurmb; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân ngầm trong bùn, dài và to (25-40cm). Lá gần như mọc vòng ở ngọn cây, hình lông chim, dài 5-6m, có các đoạn thon, hẹp nhọn, có vảy màu lục ở mặt dưới, mép cong về phía dưới. Cụm hoa cao đến 2m; nhánh đực vàng, mang nhiều hoa đực cao 2mm, có tiền diệp hẹp; nhị 3. Quả dạng quả hạch họp thành buồng hình cầu đường kính tới 40cm, màu mận sậm, chứa 1 hạt cứng; phôi nhũ lúc non trong.
Bộ phận dùng: Gốc của lá (Petiolus Nypae).
Phân bố và thu hái:Cây mọc ở rừng sát và dựa rạch có nước lợ, gặp rất nhiều ở Cà Mau. Gò Công, Tân An ở miền Nam và Hội An, Ba ngòi ở miền Trung là những vùng có nhiệt độ quanh năm cao trên 20oC. Ta có đem gây trồng thử ở Thuỷ nguyên (Hải Phòng) nhưng cây không phát triển được. Còn ở miền Nam, cây thường được trồng trong các vuông tôm ở Cà Mau, Bến Tre để che nắng cho con tôm, kết hợp khai thác lá, dịch nhựa. Người ta cũng trồng nhiều ở 2 bên bờ sông Cửu Long tỉnh Bến Tre và sông Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An. Do điều kiện thổ nhưỡng khác nhau nên kích thước và hương vị của Dừa nước ở mỗi nơi cũng khác nhau. Dừa nước trồng ở Bến Tre do chịu ảnh hưởng của nguồn nước phù sa sông Cửu Long nên mọc tốt, quả có kích thước lớn và vị ngọt. Ngược lại, Dừa nước trồng ở Cần Giuộc do bị ảnh hưởng nguồn nước mặn nên phát triển kém, có quả với kích thước nhỏ hơn và vị nhạt. Ở Bến Tre, nhân dân ta trồng Dừa nước lấy lá nên cây chỉ ra quả mỗi năm một lần vào tháng 9 (tháng 8 âm lịch); còn ở Cần Giuộc, dừa nước không bị cắt lá nên ra hoa kết quả quanh năm, trung bình mỗi ha trồng được 200-300 bụi Dừa nước, mỗi bụi cho 1 quầy quả nặng chừng 3-5kg.
Thành phần hoá học:Dịch cây chứa 15% saccharose.
Công dụng:
Quả có phôi nhũ trong ăn ngon, còn dùng nuôi lợn mau mập. Quày quả non (bụp phèn) xào nấu với vọp có vị ngọt ngon. Nõn non còn dùng làm thuốc lá. Chất dịch ngọt hứng được từ cuống quày quả non là một nguồn lợi để chế biến đường và rượu hoặc giấm. Vỏ hạt cứng rắn như ngà được dùng làm để lợp nhà, dựng vách nhà lá. Lá non (cà bắp) dùng để gói bánh nếp hay làm các vật dụng như gàu xách, cơi trầu. Bẹ Dừa nước và sống lá được dùng để bện thừng, dệt thảm, làm dây buộc. Cơm dừa nước ăn ngon và mát, nhiều người quen gọi là "trái mát mật" chỉ cần cho vài miếng cơm Dừa nước vào ly, thêm đường cát và nước đá, trộn đều để sau 5-10 phút lấy ra ăn. Có thể làm nhân chè đậu xanh ăn cũng rất mát. Cũng có người cho rằng cơm Dừa nước còn chữa được chứng nhức đầu và đái đường nếu như ăn thường xuyên và điều độ.
Thường người ta hay dùng phần gốc của lá Dừa nước (cà bắp) đem nướng, vắt lấy nước trị bệnh sản hậu, hoặc dùng làm thuốc trị bệnh ỉa chảy với liều dùng 4-8g. "Rún" lá có tác dụng cầm máu.
Ở Philippin, lá giã ra làm bột dùng làm thuốc trị các vết cắn của động vật và rết cắn, còn dùng trị loét.

Sunday, 2 March 2014

DỪA

DỪA

Tên khác: Dừa
Tên khoa học: Cocos nucifera L., thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây thân trụ cao tới 20m. Thân nhẵn, có nhiều vết sẹo to do bẹ lá rụng để lại. Lá rất to, có bẹ ôm lấy thân cây và 1 trục mang nhiều lá chét xếp 2 dãy đều đặn ở hai bên. Bông mo (buồng hoa) ở nách lá, lúc đầu ở trong một mo dày, phân nhánh nhiều thành bông, mỗi bông mang hoa đực ở trên và hoa cái ở dưới. Hoa đực có 6 mảnh bao hoa màu vàng, 6 nhị và 1 nhuỵ lép. Hoa cái lớn hơn, có 6 mảnh bao hoa, 3 lá noãn nhưng chỉ có 1 lá noãn phát triển thành quả hạch mang 1 hạt. Quả khô, gồm 3 lớp vỏ, vỏ quả trong là sọ dừa. Hạt to, có nội nhũ đặc biệt gồm phần nước ở trong và phần cứng (cùi dừa ở ngoài).
Bộ phận dùng: Nước dừa, rễ và dầu (Lac, Radix et Oleum Cocoris).
Phân bố và thu hái:Gốc ở đảo Andaman (vịnh Bengan Ấn Độ), được trồng rộng rãi ở nông thôn Việt Nam, xung quanh hồ ao mương rạch, lạch sông. Cây mọc khoẻ, ưa đất thoáng dày, ẩm ướt. Ở nước ta, có các giống Dừa quý như Dừa dâu, Dừa ta, Dừa xiêm, Dừa lửa, Dừa lai Maoa, Dừa dâu cho nhiều dầu, có năng suất cao và Dừa lửa nhiều nước là hai giống dừa được trồng nhiều. Dừa có thể thu hái 4 lần mỗi năm, nhưng rộ nhất từ tháng 6 đến tháng 10. Rễ dừa thu hái quanh năm.
Thành phần hoá học:Nước Dừa là một dung dịch đẳng trương gồm chủ yếu là glucose, fructose, rất ít saccarose; ngoài ra còn có các acid hữu cơ (acid malic), các acid amin, các acid béo, vitamin C. Hàm lượng các chất này rất ít, vì tỷ lệ nước trong nước dừa lên tới 92-93%. Cùi Dừa khô, theo tỷ lệ % có nước 3,88, protein nguyên 7,81, lipid 66,26, chất chiết xuất không có nitrozen 13,63, acid lauric 87,27, acid palmitic 2,35, acid oleic 1,18, acid butyric và caprois 0,40. Còn có một lượng nhỏ vitamin D.
Tính vị, tác dụng:Cùi Dừa có vị ngọt, tính bình, có tác dụng ích khí, bổ dưỡng, nhuận tràng và lợi tiểu. Nước Dừa vị ngọt, tính bình, có tác dụng giảm tiêu khát, khỏi thổ huyết, trừ say nắng, làm đen tóc. Vỏ sọ Dừa vị đắng, tính bình có tác dụng cầm chảy máu mũi, ngừng nôn. Vỏ quả dừa có tác dụng làm giảm đau; rễ dùng lợi tiểu, thanh can.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ta thường dùng nước Dừa uống bổ dưỡng và giải khát, còn dùng trị sởi và trị sán xơ mít. Rễ Dừa thay thế các thuốc lợi tiểu, dùng trị bệnh lậu, ho gió, các chứng về gan có vàng da hay không. Cùi dừa thường được sử dụng trong ăn uống vừa bổ dưỡng, giúp cơ thể có thêm chất béo, lại có thể trị phong thấp nhức mỏi. Vỏ sọ Dừa sắc uống cầm chảy máu mũi và ngừng nôn.
Thế giới ngày nay ưa chuộng Dừa vì nó chứa một số acid béo không thay thế trong quá trình đồng hoá thức ăn, cố định men, tham gia dự trữ chất béo của cơ thể. Dầu dừa hay bơ Dừa tạo thành một nhũ tương rất mịn khi gặp mật và dịch tụy nên dễ đồng hoá. Nước Dừa vô trùng dùng làm dịch truyền tĩnh mạch trị ỉa chảy.
Bài thuốc:
1. Bỏng lửa, bỏng nước sôi: dùng vôi bột 1 chén, dầu Dừa 1 muỗng canh. Đổ vôi vào nước khuấy cho đều, lóng lấy nước trong độ 1 chén, trộn dầu vào, bắc lên bếp chụm lửa riu riu khuấy cho đều tay, chừng thuốc keo lại như thuốc dán lấy ra để nguội dùng bôi vào chỗ bỏng nhiều lần.
2. Chữa bỗng dưng đau tim: dùng vỏ sọ Dừa đốt tồn tính, tán nhỏ, uống với rượu, 4-10g với nước nguội.

3. Lở ngứa nhức nhối, gân xương đau nhức: dùng vỏ quả Dừa đốt tồn tính, uống với rượu, 4-10g cho ra mồ hôi thì bớt đau. Cũng có thể dùng vỏ quả dừa sắc nước uống.

Thursday, 13 February 2014

ĐẮNG CAY

ĐẮNG CAY

Tên khác: Ðắng cay, Sẻn gai
Tên khoa học: Zanthoxylum planispinum Sieb, et Zuce, (Z. alatum, Roxb, var. planispinum Rehd, et Wils.); thuộc họ Cam (Rutaceae).
Mô tả: Cây nhỡ cao tới 4m, phân nhánh nhiều, có cành dài và thõng xuống, hoàn toàn nhẵn. Cành có gai dẹp, thẳng hay gần thẳng. Lá kép lông chim, mọc so le, gồm 3-5 lá chét không cuống, phần giữa của cuống chung có cánh, những lá chót trên lớn hơn, các lá bên không cân ở gốc; tuyến nhỏ, màu đen ở dưới, không trong suốt, với ít tuyến lớn trong. Cụm hoa chùm thưa ở nách lá, hoa màu trắng lục. Quả nang, có một hạch, mở, to 5mm, màu đỏ nâu, có những tuyến thơm, lồi lõm những u; vỏ quả ngoài dễ tách khỏi vỏ quả trong. Hạt đơn độc, hình cầu màu đen nhánh. Hoa tháng 5-6, quả tháng 8-9.
Bộ phận dùng: Quả (Fructus Zanthoxyli Planispini); thường gọi là Trúc diệp tiêu
Phân bố và thu hái:Loài phân bố ở Himalaya, trung và nam Trung Quốc, Nhật Bản, Philippin. Ở nước ta, cây mọc ở vùng cao của Lào Cai, Cao Bằng. Cũng được trồng bằng hạt vào mùa xuân. Thu hái quả vào mùa thu, phơi khô.
Thành phần hoá học:Quả chứa 1,5%, tinh dầu. Vỏ chứa 1 chất đắng kết tinh tương tự Berberin, một chất dầu bay hơi và nhựa; còn có dictamnine. Lá chứa tinh dầu, các chất carbonyl như Men-nonyl ketone. Chưng cất phân đoạn ceton tự do có linalyl-acetat, sesquiterpen hydrocarbon và tricosane.
Tính vị, tác dụng:Quả có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, giảm đau, trừ giun. Cành và gai có tác dụng làm thông hơi, giúp tiêu hoá.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả và hạt dùng làm thuốc trị sốt, chữa đau bụng nôn mửa, rối loạn tiêu hoá, ỉa chảy, phong thấp đau nhức, mẩn ngứa, ho ra đờm lỏng. Dùng quả và hạt ngâm rượu uống, hoặc dùng liều 4-8g sắc uống. Quả còn dùng nhai ngậm chữa đau răng.
Bài thuốc:
1. Chữa đau bụng lạnh dạ, thổ tả: Hạt Ðắng cay 8g, sao, tán nhỏ, uống với nước nóng.
2. Ðau bụng giun: Hạt Ðắng cay 8g, Ô mai 12g, sắc uống.

Saturday, 14 September 2013

CỌ SẺ

CỌ SẺ


Tên khác: Kè tàu.
Tên khoa học:Livistona chinensis (Jacq.) R. Br. ex Mart.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Tên đồng nghĩa: Latania chinensis Jacq.; Saribus chinensis (Jacq.) Blume
Mô tả: Cây thân cột cao đến 25m, thân to 20-30cm. Lá có phiến màu lục tươi, có nhiều tia chót dài 50-80cm, rủ xuống; cuống có gai dài 1-3cm. Cụm hoa chùy. Hoa đơn tính, hoa đực có 6 nhị; hoa cái có bầu 3 ô. Quả tròn dài, to 11-13mm, màu lam đậm lúc chín. Ra hoa quả quanh năm, thường là cuối xuân.
Bộ phận dùng:Hạt, rễ và lá (Semen, Radix et Folium Livistonae Chinensis).
Phân bố sinh thái:Cây thường được trồng làm cảnh từ lâu trong các vườn gia đình và công viên. Nhân giống bằng hạt. Thu hái hạt suốt mùa thu và mùa đông, phơi khô cất dành, thu hái lá và rễ quanh năm, rửa sạch và phơi khô.
Tính vị, tác dụng:Vị ngọt và chát, tính bình; hạt làm tiêu ung thư, khối u; rễ giảm đau.
Công dụng: Ở Trung Quốc, người ta dùng hạt chữa: 1. Ung thư mũi, họng, thực quản; 2. Ung thư rau; 3. Bệnh bạch cầu.
Liều dùng: Ngày dùng 30-60g hạt, sắc uống. Rễ dùng trị hen suyễn, cũng làm dịu đau do tiêm. Lá dùng trị chảy máu tử cung. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc.
Bài thuốc:
1. Chữa u ác tính: dùng hạt Cọ sẻ 30g, nấu với thịt lợn nạc cũng 30g trong 2 giờ.

2. Chảy máu tử cung: dùng cuống lá Cọ sẻ đốt cháy làm thành tro hòa vào nước uống hoặc sao lên và nấu nước uống.

Sunday, 23 June 2013

CỌ DẦU-Dừa dầu-Elaeis guineensis-cây thuốc dùng để chế dầu ăn, chế xà phòng, làm thuốc gội đầu

CỌ DẦU


Tên khác: Dừa dầu.
Tên khoa học: Elaeis guineensis Jacq.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây thân cột cao tới 15m, có thể tới 30m; thân có bẹ lá còn lại, to 20-30 cm. Lá lông chim lớn, cao 3,5m; cuống lá có gai; lá chét dài 0,5-1m, rộng 5cm. Buồng hoa đực và cái riêng nhưng cùng chung một cây; nhánh đực hình trụ, hoa có 6 nhị dính nhau; hoa cái to; 3 vòi nhụy. Quả họp thành những buồng to, nặng 10-20kg và mang mỗi buồng 1.000-2000 quả hạch màu vàng đỏ. Quả hình trứng, có vỏ quả ngoài mỏng, vỏ quả giữa màu da cam, có sợi nạc và có dầu, vỏ quả trong cứng, bao lấy 1-3 hạt, có vỏ hạt đen.
Bộ phận dùng: Quả và hạt (Fructus et Semen Elaeis).
Phân bố sinh thái:Cây gốc ở bờ biển miền Tây châu Phi (từ Ghinê tới Conggo) nhập trồng ở nước ta, trước đây chủ yếu để làm cảnh, ngày nay đã được gây trồng rộng rãi từ Hà Giang, Quảng Ninh tới Hà Tĩnh để lấy quả ép dầu dùng ăn. Mỗi héc ta cây trồng cho tới 5 tấn dầu.
Thành phần hóa học:Dầu vỏ quả có màu da cam; nó chứa hầu hết các glycerid của acid palmitic và oleic; màu sắc da cam là do các carotenoit. Dầu nhân hạt ổn định ở 20°C, màu trắng vàng; nó chứa các glycerid của các acid có trọng lượng phân tử bé hơn: acid lauric, myristic, oleic, thành phần của nó gần với thành phần của bơ dừa.
Tính vị, tác dụng:Vị béo ngọt, tính mát; có tác dụng lợi tiểu, nhuận tràng.
Công dụng: Dầu cọ dùng để chế dầu ăn, chế xà phòng, làm thuốc gội đầu. Dầu ăn bổ, giúp tiêu hóa tốt.
Liều dùng: Mỗi lần dùng 15-20ml.

Thursday, 20 June 2013

CỌ CẢNH-Trachycarpus fortunei-cây thuốc chữa nôn ra máu, chảy máu cam, ỉa ra máu, băng huyết, rong huyết

CỌ CẢNH


Tên khác: Cọ cánh.
Tên khoa học: Trachycarpus fortunei (Hook.) H.Wendl.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cột thấp không vượt quá 10m, mọc đơn độc, phủ đầy những thớ sợi chéo nhau và bao bởi những bẹ lá tồn tại lâu. Lá dạng quạt, màu lục sẫm, xếp lại, đường kính 50-70cm hay hơn, có màu sẫm hay mốc; phiến lá bị cắt tới giữa thành những thùy hình dải có rãnh, chẻ đôi ở ngọn thành hai thùy tù; cuống lá mảnh và dài, tròn ở mặt dưới, có rãnh ở mặt trên, hơi có gai hoặc hoàn toàn nhẵn, cũng dài bằng đường kính của phiến. Hoa nhiều, màu vàng, xếp trên những bông mo thõng xuống bao bởi những mo màu hung. Quả nhỏ màu xanh lam, chứa 1 hạt. Ra hoa tháng 4-5, quả tháng 11-12. 
Bộ phận dùng: Cuống lá (Bẹ móc) (Petiolus Trachycarpi); thường gọi là Tông bản.
Phân bố sinh thái: Loài cây của Trung Quốc, Nhật Bản, có dáng đẹp, thường được gây trồng làm cây cảnh ở các công viên. Thu hái các cuống lá, trước và sau tiết Ðông chí (22/12), đem chẻ nhỏ, đốt thành than mà dùng.
Thành phần hoá học: Có tanin, chất cellulose.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng chát, tính bình; có tác dụng thu sáp, cầm máu.
Công dụng: Sao cháy đen trị nôn ra máu, chảy máu cam, ỉa ra máu, băng huyết, rong huyết, khí hư, ngoạithương xuất huyết, ghẻ lở hắc lào.
Liều dùng: Ngày dùng 4-12g sắc uống. Dùng tươi sắc uống trị đái ra máu. Dùng ngoài nghiền thành bột rắc.
Ghi chú: Nhiều bộ phận khác của cây cũng được sử dụng ở Trung Quốc: 1. Hoa cọ cảnh (Tông lư hoa) vị chát, tính mát, có tác dụng tránh thụ thai; đến kỳ kinh nguyệt, lấy 1 nắm hoa nấu với thịt hoặc sao với gạo ăn; 2. Quả cọ cảnh (Tông lư tử) vị đắng, chát, tính bình, có tác dụng làm se, cầm máu, dưỡng huyết, trị nôn ra máu, đái ra máu, kiết lỵ, băng huyết, rong kinh, khí hư, mỗi lần 12-20g sắc uống; 3. Rễ cọ cảnh (Tông lư căn) có tác dụng làm se, cầm máu, làm săn ruột, cầm lỵ, trị nôn ra máu, ỉa ra máu, băng huyết, rong huyết khí hư, dao chém thương tích. Dùng mỗi lần 40-80g sắc uống hoặc ngâm rượu uống.                  

Wednesday, 19 June 2013

CỌ-Kè Nam, Cây lá gồi, Cây lá nón, Kè đỏ-cây thuốc nam rễ chữa bạch đới, khí hư

CỌ


Tên khác: Cọ, Kè Nam, Cây lá gồi, Cây lá nón, Kè đỏ.
Tên khoa học: Livistona saribus (Lour.) Merr. ex A.Chev.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Tên đồng nghĩa: Corypha saribus Lour.; Saribus cochinchinensis Blume; Livistona cochinchinensis (Blume) Mart.;
Mô tả: Cây thân cột cao 10-25m; thân to 20-30cm, bao những cuống lá còn lại. Lá to mọc tập trung ở ngọn; phiến hình quạt, màu lục tươi, các chót tia ngắn, không rủ xuống; cuống có gai thưa và ngắn. Cụm hoa là chùy dài cỡ 1m; hoa lưỡng tính với 6 nhị, bầu 3 ô. Quả tròn, màu đỏ. Ra hoa tháng 10-12 quả tháng 2-4.
Bộ phận dùng: Rễ (Radix Livistonae).
Phân bố sinh thái: Loài cây đặc sắc của rừng ven suối, đất ẩm vùng núi tới 1500m khắp nước ta. Cũng thường được trồng làm cây cảnh và trồng trên các đồi thấp ở miền trung du dọc theo bờ ruộng ở tỉnh Thanh Hóa, nơi có nhiều ánh sáng khô ráo.
Thu hái: Có thể thu hái rễ quanh năm, phơi khô.
Công dụng: Thường trồng để lấy thân cây làm cột, lá dùng lợp nhà, làm nón, đan lát. Kinh nghiệm dân gian dùng rễ chữa bạch đới, khí hư. Thường phối hợp cới những vị thuốc khác như rễ Cau, rễ Tre, rễ cây Móc với lượng bằng nhau sắc đặc uống làm 2 lần trong ngày. Liều dùng hàng ngày 6-12g.

Friday, 7 June 2013

CHÀ LÀ BIỂN-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CHÀ LÀ BIỂN


Tên khác: Cây cứt chuột.
Tên khoa học: Phoenix paludosa Roxb.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cao 4 hay 5m, có thể tới 10m, đâm nhiều tược, phủ bởi những bẹ dạng lá. Lá dài khoảng 2m (tới 3m) các phiến lông chim chẻ hai, trải ra và rất nhọn, lá chét ở gốc dài và hẹp hơn. Cụm hoa là buồng có một mo, mang nhánh cái dài hơn nhánh đực, hoa đực có 6 nhị; hoa cái có 3 lá noãn hơi dính nhau ở gốc. Quả mập hình trứng cao 1cm, có mũi nhọn cứng, màu nâu đỏ, và gần như đen khi chín, chứa 1 hạt có nội nhũ ở gốc. Cây ra hoa vào tháng 3-4, có quả chín tháng 6-8.
Bộ phận dùng: Quả, chồi ngọn (Fructuset Cacumen Phoenicis).
Phân bố sinh thái: Cây của vùng biển nhiều nước châu Á, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam. Ở nước ta, nó là loài cây ngập mặn có thể cho chồi gốc mạnh, thường gặp ở những doi đất bồi cao chỉ ngập nước triều vài mươi lần trong năm.
Công dụng: Quả chín có nhiều bột ăn được. Ở đọt ngọn cây, vào khoảng tháng 10-12, có con đuông (Đuông chà là) ấu trùng của loại côn trùng Oryctes nasicornis đem nướng ăn rất thơm ngon (mỗi đọt chỉ có 1 con). Với đặc tính không bị hà và nắng mưa làm hư mục nên thân cây được dùng làm đòn tay, sàn cầu.

CHÀ LÀ-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CHÀ LÀ


Tên khác: Chà là núi, Muồng muồng.
Tên khoa học: Phoenix humilis Royle; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây có nhiều thân mọc thẳng đứng cao 2-3m, có thân bồ. Lá dài khoảng 80cm, có các phiến lông chim gập lại thành hai trên suốt chiều dài, tận cùng là một mũi nhọn; lá chét dưới biến đổi thành gai ngắn, gân không rõ. Quả mọng nhỏ và hình trứng, màu vàng vàng chuyển sang màu đỏ khi chín. Hạt dài độ 10mm, rộng 5mm, có răng ở một mặt. Ở thứ Hanceana Becc., cây lùn tới 1m, lá màu lục dịu.
Bộ phận dùng: Quả, chồi ngọn (Fructuset Cacumen Phoenicis).
Phân bố sinh thái: Rất phổ biến trong các savan cỏ, nơi ẩm lầy khắp nước ta. Cũng phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Mianma.
Công dụng: Nhân dân thường dùng lá xẻ nhỏ để nhồi nệm. Quả có hương vị của quả chà là, dùng ăn được. Chồi của cây tạo thành một loại cổ hũ như dừa, có hương vị thơm ngon. Kinh nghiệm dân gian ở Tây Nguyên dùng quả làm thuốc chữa ỉa chảy và say rượu.

CAU RỪNG-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU RỪNG


Tên khác: Cau tam hùng.
Tên khoa học: Areca triandra Roxb. ex Buch.-Ham.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cột cao 2-8m, dày 3-5cm, có vòng, mọc đơn độc hoặc có tược. Lá dài 1-2m, có các đoạn dài 45-90cm. Quả dạng đấu, hình thoi rộng, thon hẹp ở gốc nhiều hơn ở ngọn, dài 35mm, dày 15mm ở trên đoạn giữa, màu hồng rồi đỏ, có khía nhỏ. Hoa, quả tháng 3-8.
Bộ phận dùng: Quả (Fructus Arecae Triandrae).
Phân bố sinh thái: Loài của Ấn Độ, Mianma, Nam Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc phổ biến ở trong rừng thường xanh từ Kontum, Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, tới Kiên Giang. Cũng thường được trồng làm cảnh.
Công dụng: Quả cũng được dùng để ăn trầu.

CAU LÀO-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU LÀO


Tên khác: Cau núi, Sơn binh lang.
Tên khoa học: Areca laosensis Becc.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây thân cột cao 2-6m, to 2-3cm, lông dài 8-10cm. Lá có phiến dài 1m; lá chét không đều, mép hơi có răng, dài 20-40cm, rộng 3-5cm; cuống 10cm. Cụm hoa dẹt dài 20cm; hoa đực nhỏ, nhiều; hoa cái to hơn. Quả thuôn dạng trụ-thoi, có đấu 11mm, dài 3,5cm, dày 1cm, cụt và có mũi nhọn ở chóp, khi chín màu đỏ.
Bộ phận dùng: Hạt (Semen Arecae); thường gọi là Sơn binh lang.
Phân bố sinh thái: Cây mọc hoang trong rừng thường xanh các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, cho tới Khánh Hoà, Lâm Đồng... Còn phân bố ở Lào.

Công dụng: Quả có thể dùng ăn với trầu. Hạt dùng làm thuốc, được xem như là tốt hơn hạt Cau nhà.

CAU CHUỘT NÚI -CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU CHUỘT NÚI


Tên khoa học: Pinanga duperreana Pierre ex Becc.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân mọc thành túm, cao 2-6m, dày 15-20mm. Lá dài tới 1m, có 26-28 đoạn nhọn, hình dải-ngọn giáo, dài 50cm, rộng 3cm, có mũi nhọn dài. Cụm hoa dài tới 20-30cm, có 5-8 nhánh hẹp, hoa đực họp dày đặc. Quả dạng đấu, hình trứng-thoi, thon hẹp từ 1/3 trên, tù, dài 15-17mm, rộng 7mm ở phía trên của gốc.
Bộ phận dùng: Lõi thân, quả (Medullaet Fructus Pinangae).
Phân bố sinh thái: Loài đặc hữu của Trung Bộ Việt Nam, Lào và Campuchia. Ở nước ta, chỉ gặp ở Quảng Trị, Khánh Hoà và Lâm Đồng (Đơn Dương).
Công dụng: Ở Campuchia, phần ruột của thân được dùng ăn. Quả dùng ăn trầu.

CAU CHUỘT NAM BỘ-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU CHUỘT NAM BỘ


Tên khoa học: Pinanga cochinchinensis Blume; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cột cao 4-5m, dày 3cm hay hơn. Lá dài, có nhiều đoạn hẹp, dài 50cm, rộng 1cm, phần lớn nhọn dài, các lá trên rộng hơn, tận cùng bởi những răng tròn. Cụm hoa dài 25-35cm, phân nhánh nhiều với 5-8 nhánh khá to. Quả dạng đấu, thuôn, hình trứng, dài 11-13cm, rộng 5mm ở 1/3 trên.
Bộ phận dùng: Quả (Fructus Pinangae Cochinchinensis).
Phân bố sinh thái: Loài đặc hữu của Nam Việt Nam và Campuchia. Chỉ gặp trong rừng thường xanh ở vùng thấp ở Bảo chánh và Phú Quốc.
Công dụng: Quả được dùng để ăn với trầu và làm mồi câu cá.

CAU CHUỘT BA VÌ-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU CHUỘT BA VÌ


Tên khác: Cau chuột rừng, Cau dại, Cau bụi rừng.
Tên khoa học: Pinanga baviensis Becc.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây mọc thành bụi thưa, cao 1-3m (-6m). Thân có nhiều vết sẹo của cuống lá đã rụng. Lá mọc tập trung ở ngọn. Hai lá chét ở đầu thường dính nhau như đuôi chim én. Cụm hoa buông thõng, hoa vàng nhạt. Quả thuôn đều, khi chín màu vàng. Mùa hoa quả tháng 8-11.
Bộ phận dùng: Hạt, vỏ quả (Semen et Pericarpium Pinangae).
Phân bố sinh thái: Cây mọc rải rác trong rừng thứ sinh ở chân núi đá vôi hay trong thung lũng ẩm, nơi đất sâu có nhiều cây gỗ lớn, mọc xen lẫn với các loài cây bụi, dương xỉ chịu bóng khác; gặp nhiều nhất là ở Thanh Hoá, Nghệ An. Người ta thường thu hái quả già, lột lấy vỏ, phơi khô.
Công dụng: Hạt cũng dùng trị giun sán. Vỏ quả lợi tiểu, dùng chữa lỵ và bệnh thần kinh.
Liều dùng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc.

CAU CHUỘT BÀ NA-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU CHUỘT BÀ NA


Tên khoa học: Pinanga banaensis Magalon; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Thân cột đơn, cao 2-6m, dày 2,5-3,5cm có vòng. Lá dài 0,80-1,3cm, cuống lá phình, ôm thân ở gốc, đoạn lá men theo cuống lá, nhọn, dài 40cm, rộng 2-2,5cm. Cụm hoa dài 10-13cm, có 6 nhánh nhỏ so le. Quả hình trụ, hơi thót lại ở đỉnh, dài 14mm. rộng 5mm, dạng đấu.
Bộ phận dùng: Lõi thân, quả (Medulla et Fructus Pinangae).
Phân bố sinh thái: Loài đặc hữu trong rừng rậm trên núi ở miền Trung Việt Nam (Huế, Ba Na, Đà Lạt).
Công dụng: Lõi thân có bột dùng ăn được. Quả dùng ăn trầu.

CAU CẢNH VÀNG -CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC NAM

CAU CẢNH VÀNG


Tên khác: Cau vàng, Cau đẻ.
Tên khoa học: Chrysalidocarpus lutescens H. Wendl.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây mọc thành bụi. Thân cột ngắn. Lá cong hình cung, chia thuỳ, có đến 50 cặp thuỳ lông chim rộng khoảng 2-3 cm, gần như đối nhau, màu lục dịu, có gân giữa khoẻ; cuống lá mảnh và có bẹ, dài cỡ 60cm, màu vàng lục ở gốc và có những rạch nâu ở về phía nửa dưới. Quả màu tím sẫm. Hoa tháng 10-2.
Bộ phận dùng: Lá (Folium Chrysalidocarpi), chủ yếu là cuống lá ngọn (Diệp liêu).
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Madagascar, các đảo Maurice và Reunion, được trồng làm cảnh.
Tính vị, tác dụng: Cuống lá ngọn có vị đắng, tính mát, có tác dụng thu liễm chỉ huyết.
Công dụng: Người ta dùng lá nấu nước trị ghẻ (Viện Dược liệu). Ở Trung Quốc (Vân Nam), người ta dùng làm thuốc cầm máu.

CAU-CÔNG DỤNG CÁCH DÙNG-CÂY THUỐC QUÝ

CAU


Tên khoa học: Areca catechu L.; thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cây cao tới 15-20m, có thân cột mang chùm lá ở ngọn. Lá có bẹ dày, phiến xẻ lông chim. Cụm hoa là bông mo phân nhánh có mo sớm rụng. Trong cụm hoa, hoa đực thường ở trên, hoa cái ở dưới; hoa đực có mùi thơm. Quả hạch hình trứng, chứa một hạt tròn có nội nhũ xếp cuốn, khi già màu nâu nhạt. Ra hoa tháng 2-8, quả tháng 11-5.  
Bộ phận dùng: Hạt khô (Semen Arecae), thường gọi là Tân lang. Vỏ quả ngoài và vỏ giữa (Pericarpium Arecae), thường có tên là Đại phúc bì.
Phân bố sinh thái: Cây của vùng Ấn Độ-Malaysia, được trồng ở nhiều nước, từ Malaysia qua Philippin, Thái Lan, các nước Đông Dương, Trung Quốc, Ấn Độ, Madagascar và vùng Đông Phi. Ở nước ta, Cau được trồng từ lâu đời và khá phổ biến khắp các vùng nông thôn để lấy quả ăn trầu và hạt làm thuốc. Trồng bằng hạt vào mùa xuân. Sau 5-6 năm mới có thu hoạch; mỗi buồng cau có tới 200-300 quả.
Thu hái chế biến: Những quả cau già để lấy hạt và vỏ quả. Hạt phơi hoặc sấy đến thật khô. Khi dùng đem hạt khô ngâm nước 2-3 ngày cho mềm, Mỗi ngày thay nước một lần (không nên ngâm vào dụng cụ bằng sắt, vì trong hạt có tanin). Vớt ra để ráo nước, thái mỏng, phơi hoặc sấy ở nhiệt độ 40-50oC tới độ ẩm dưới 10% (không được sao). Vỏ quả đem rửa sạch, ủ mềm một đêm, xẻ tơi, phơi hoặc sấy khô tới độ ẩm dưới 10%, tẩm rượu sao (tuỳ theo đơn) có thể nấu thành cao đặc. Cần bảo quản nơi khô ráo, thỉnh thoảng xông hơi lưu huỳnh để phòng mốc mọt.
Thành phần hóa học: Trong hạt cau có dầu béo 10-15%, protid 5-10%, glucid 50-60%, tanin 15%, alcaloid ở dạng kết hợp với tanin 0,3-0,5%. các alkaloid chính là arecolin, arecaidin (arecain) guvacolin, guvacin và isoguvacin, arecolidin. Vỏ quả cũng chứa những alkaloid như ở hạt (arecolin, guvacolin, guvacin...) nhưng với hàm lượng rất thấp.
Tính vị, tác dụng: Hạt Cau có vị cay, đắng, chát, tính ấm, có tác dụng tiêu tích, hành thuỷ sát trùng, trừ giun sán. Vỏ quả Cau có vị ngọt, hơi the, tính ấm, có tác dụng thông khí, hành thuỷ, thông đại tiểu trường.
Người ta đã biết được arecolin, hoạt chất chính trong hạt Cau là chất cường đối giao cảm, như muscarin. Nó làm tăng sự tiết dịch và làm co đồng tử. Với liều thấp, nó kích thích thần kinh; với liều cao, nó làm liệt thần kinh. Nó làm tăng nhu động ruột, làm tê bại cơ sán như kiểu nicotin, nghĩa là ức chế các hạch thần kinh, khớp thần kinh cơ, làm cho sán không bám vào thành ruột được.
Công dụng: Hạt Cau được chỉ định dùng trị bệnh sán xơ mít, giun đũa, sán lá, thuỷ thũng cước khí, dùng kích thích tiêu hoá, chữa viêm ruột ỉa chảy, lỵ, chốc đầu. Thường dùng 0,5-1g/ngày, dạng thuốc sắc; với liều cao, dùng trục sán. Vỏ quả Cau dùng trị thuỷ thũng cước khí, bụng đầy trướng, bí tiểu tiện, phụ nữ có thai phù thũng. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, thường phối hợp với các vị thuốc khác (vỏ rễ Dâu, vỏ Chân chim, vỏ Khủ khởi, Gừng sống).
Cách dùng: Để tẩy sán, phối hợp với hạt Bí ngô. Buổi sáng, lúc đói, ăn 40-100g hạt bí đã bóc vỏ, sau đó 2 giờ, uống nước sắc Hạt cau với liều 50-80g tuỳ người, đun với 500ml nước, sắc còn 150ml uống một lần; nửa giờ sau uống một liều thuốc tẩy. Nằm nghỉ đợi khi buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước ấm.
Bài thuốc:
1. Chữa sốt rét: Hạt Cau 2g. Thường sơn 6g, Thảo quả 1g, Cát căn 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
2. Chữa khó tiêu, đầy trướng bụng: Dùng hạt Cau 10g, Sơn tra 10g, sắc nước uống.
3. Tẩy giun đũa: Dùng 21 hạt Cau sao tán nhỏ, nhịn ăn, chia uống làm 2-3 lần trong một ngày với nước sắc vỏ quả Cau làm thang (Bách gia trân tàng).
4. Trẻ em bị chốc đầu: Dùng hạt Cau mài lấy bột phơi khô hoà với dầu Vừng mà bôi.

Saturday, 18 May 2013

BÁNG-Arenga pinnata-cây thuốc nam

BÁNG

Tên khác: Búng báng; Báng; Đoác; Đoác báng; Quang lang; Đào rừng, Cây guộc.
Tên khoa học: Arenga pinnata(Wurmb) Merr., thuộc họ Cau (Arecaceae).
Tên đồng nghĩa: Saguerus pinnatus Wurmb; Arenga saccharifera Labill.
Mô tả: Cây cao khoảng 7-10m, hay hơn, đường kính tới 40-50cm. Thân có nhiều bẹ, gốc cuống lá tàn lụi đầy đông đặc. Lá mọc vòng quanh thân và tập trung ở phía ngọn, toả rộng ra chung quanh; lá kép lông chim, dài 3-5m có nhiều lá chét xếp hai bên cuống lá; mỗi lá chét dài 0,8-1,2m, rộng 4-5,5cm, mặt trên màu lục, mặt dưới trắng như phấn, gốc lá chét rộng kéo dài thành đai ôm lấy cuống lá. Cụm hoa hình bông mo to, dài 0,9-1,2m, chia nhiều nhánh cong xuống. Hoa đực hình nón có 70-80 nhị; hoa cái có 3 lá đài tồn tại ở quả. Quả hình cầu dài 3,5-5cm, màu vàng nâu nhạt, trong có 3 hạt, hơi 3 cạnh, màu ám nâu, quả tiết chất, nước gây ngứa do có nhiều tinh thể oxalat calcium hình kim rất nhỏ. Ra hoa vào mùa hè.
Bộ phận dùng: Quả, thân và rễ (Fructus, Caulis et Radix Arengae).
Phân bố sinh thái: Báng phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Nam Trung Quốc, các nước Ðông Dương, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, mọc nhiều ở chân núi ẩm. Trong thung lũng núi đá vôi miền trung du, trong rừng thứ sinh ít cây gỗ lớn ở hầu khắp các vùng đồi núi của nước ta.
Thành phần hoá học: Theo tài liệu phân tích năm 1979 của Viện chăn nuôi: Nước 14,8%, protid 2,6%; lipid 1,1%; cellulose 7,6%; dẫn xuất không protein 74,1%; khoáng toàn phần 2,5%, trong đó có calcium, phosphor.
Tính vị, tác dụng: Bột Báng có vị ngọt tính bình; có tác dụng bổ ích cho cơ thể, làm mạnh sức, nhẹ mình. Quả Báng có vị đắng, tính bình, có tác dụng làm tan máu ứ. Thân cây có tác dụng thanh nhiệt lợi tiểu.
Công dụng:
- Báng đã được nhân dân ta sử dụng từ thời đại các vua Hùng. Tổ tiên ta đã từng lấy bột trong thân cây và củ để ăn thay cơm. Ruột thân cây chứa nhiều bột gỡ ra làm bánh ăn ngon. Cuống cụm hoa chứa nhiều nước, ngọt có thể nấu thành đường ăn hoặc cho lên men để chế rượu. Nhân hạt luộc chín ăn ngon. Ðồng bào miền núi cũng thường trồng thêm ở một số nơi để lấy bột ăn thay lương thực khi cần thiết (mỗi cây có thể cho khoảng 100kg bột). Nõn cây bóc vỏ cứng, thái nhỏ, luộc bỏ nước, dùng nấu canh ăn hay xào ăn.
- Bột Báng cũng được sử dụng làm thuốc bồi bổ hư tổn suy yếu, ăn lâu thì lưng gối khỏi yếu mỏi. Quả cũng được dùng sắc uống chữa đau nhức. Dịch của lớp vỏ quả ăn da, độc đối với cá. Thân cây cũng được dùng sắc uống chữa cảm sốt, rễ dùng trị viêm cuống phổi và làm dễ tiêu hoá. Ngoài ra những sợi ở bẹ lá còn lại trên cây có thể dùng làm chỉ khâu nón lá hay bện thừng xe làm dây buộc.